Lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản

lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Theo Điều 356 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà làm trái công vụ.

Bên cạnh đó, theo Điều 357 BLHS năm 2015, lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản hay tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn làm trái công vụ.

Theo đó, giữa hai tội danh lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và lạm quyền trong khi thi hành công vụ có các dấu hiệu pháp lý tương đồng và đặc trưng riêng như sau.

Những dấu hiệu pháp lý có tính chất tương đồng

Khách thể của hai tội phạm đều là quan hệ xã hội bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội (trong hoạt động công vụ); lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Theo quy định của BLHS năm 2015 thì hai tội phạm này đều được thực hiện “trong khi thi hành công vụ”, do đó hai tội này không xảy ra trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước (lĩnh vực tư).

Về hành vi thuộc mặt khách quan, cả hai tội đều có dấu hiệu bắt buộc là “làm trái công vụ”.

Việc xác định đầy đủ và chính xác nội hàm, phạm vi của “công vụ” có ý nghĩa rất quan trọng để xác định hành vi làm trái công vụ. Luật cán bộ, công chức năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2019 (sau đây gọi là Luật cán bộ, công chức năm 2008) không quy định cụ thể khái niệm “công vụ”, mà chỉ nêu tại Điều 2: 

Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan”. 

Ngoài ra, khái niệm “công vụ” được đề cập gián tiếp thông qua một số quy định của pháp luật có liên quan đến “người thi hành công vụ”. 

Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2017 quy định tại khoản 2 Điều 3 như sau: 

“Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm… vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố tụng hoặc thi hành án”.

Tương tự, Nghị định số 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 của Chính phủ quy định các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi chống người thi hành công vụ quy định tại khoản 1 Điều 3: 

“Người thi hành công vụ là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của nhà nước, nhân dân và xã hội”.

Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm này cũng được định nghĩa rất khác nhau. Ở nghĩa rộng, công vụ được hiểu là 

“những công việc do nhân viên của cơ quan, tổ chức thực hiện theo sự phân công hoặc ủy quyền nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức đó”.

Ở nghĩa hẹp, công vụ được hiểu là “công vụ nhà nước, và cán bộ, công chức là chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động công vụ trong các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) thực thi chức năng, nhiệm vụ công do cấp có thẩm quyền quy định”.

Khái niệm công vụ được đề cập đến trong hai tội phạm nêu trên phải được hiểu là công vụ gắn với quyền lực nhà nước, có mục đích phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân.

Nói cách khác, “công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực – pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước hoặc những người khác khi được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội”.

Biểu hiện của hành vi làm trái công vụ

– Hành vi mâu thuẫn với chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu chung đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước mà người có chức vụ, quyền hạn đang làm việc.

– Hành vi vi phạm các nguyên tắc trong khi thi hành công vụ. Điều 3 Luật cán bộ, công chức năm 2008 liệt kê 05 nguyên tắc trong khi thi hành công vụ bao gồm: 

“1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; 2. Bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; 3. Công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát; 4. Bảo đảm tính hệ thống, thống nhất, liên tục, thông suốt và hiệu quả; 5. Bảo đảm thứ bậc hành chính và sự phối hợp chặt chẽ”.

Như vậy, việc không tuân thủ các nguyên tắc nêu trên cũng được coi là thực hiện hành vi trái với công vụ.

– Hành vi được thực hiện trong những trường hợp người có chức vụ, quyền hạn nhận thức không đúng về quyền lợi của cơ quan, tổ chức mình mà thực hiện những hành vi trái với công vụ và lợi ích nói chung.

– Hành vi trái với quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tức là không xuất phát từ mục đích phục vụ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản
lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng

Về hành vi khách quan: 

Hành vi khách quan của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là dựa vào chức vụ, quyền hạn được giao để làm trái công vụ. Tức là, người phạm tội sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình được giao như một “phương tiện” để phạm tội.

Người phạm tội không cần sử dụng thêm bất cứ hành vi, thủ đoạn nào khác trong khi thi hành công vụ vì về bản chất họ đã được giao thực hiện các công việc đó nhưng hành vi của họ lại trái công vụ.

Trong khi đó, hành vi khách quan của Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ là hành vi vượt quá phạm vi chức trách, nhiệm vụ được giao, từ đó dẫn đến làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Điều đó có nghĩa là người có chức vụ, quyền hạn đã tự ý làm những việc thuộc thẩm quyền của cấp cao hơn hoặc của người khác.

Hành vi tự ý làm những việc không thuộc thẩm quyền của mình được giao chính là làm trái công vụ.

Nói cách khác, đây là những hành vi thuộc dạng biểu hiện thứ hai của làm trái công vụ.

Điều 357 BLHS năm 2015 không mô tả các hình thức lạm quyền trong khi thi hành công vụ, nhưng dựa theo lý luận và thực tiễn có thể tổng hợp thành một số dạng sau: (

1) Làm một việc thuộc chức trách, quyền hạn của cấp trên trái pháp luật, trái công vụ; (2) Làm một việc thuộc chức trách, quyền hạn của người có chức năng, nhiệm vụ ở ngành khác; (3) Làm một việc thuộc chức năng, thẩm quyền của tập thể; (4) Làm một việc trong khi thiếu những điều kiện bắt buộc (như phá dỡ công trình xây dựng trái phép khi quyết định chưa có hiệu lực); (5) Làm việc trái pháp luật khác.

Đối với người phạm tội có hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ thì quyền hạn không phải là “phương tiện” để thực hiện tội phạm.

Người phạm tội về bản chất không có quyền hạn để thực hiện một số hoạt động công vụ nhưng họ lại thực hiện “vượt quá giới hạn”, do đó đã làm trái công vụ.

Về mức độ sử dụng nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể trong khi thi hành công vụ

Đối với Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, khi thực hiện hành vi phạm tội người này không vi phạm quy định về thẩm quyền.

Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết công việc, họ đã vi phạm các quy định, quy chế được giao cụ thể đối với công việc đó.

Như vậy, để chứng minh hành vi phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, cần chứng minh được 02 vấn đề:

(i) Người phạm tội vẫn thực hiện công việc trong phạm vi thẩm quyền, chức danh được giao (không có vi phạm về mặt phạm vi của thẩm quyền);

(ii) Trong quá trình giải quyết công việc được giao, người phạm tội vi phạm quy định về cách thức thực hiện công việc đó (có vi phạm về mặt nội dung của thẩm quyền).

Để chứng minh 02 yếu tố này, cần đối chiếu giữa việc thực hiện nội dung công việc trên thực tế của người có chức vụ, quyền hạn với các quy định của pháp luật về cách thức thực hiện nội dung công việc đó.

Từ đó mới đánh giá được xem họ có lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để gây thiệt hại hay không.

Để xác định hành vi khách quan của Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ cần phải nghiên cứu các quy định của pháp luật về thẩm quyền thi hành công vụ của người có chức vụ, quyền hạn, từ đó xác định việc làm của họ là đúng hay vi phạm thẩm quyền.

Thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn của từng cấp, từng ngành được quy định cụ thể trong các văn bản luật và các văn bản dưới luật (nghị quyết, nghị định, thông tư, quy chế, quyết định…).

Do đó, khi xem xét, đánh giá tội danh đối với Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ cần phải dựa vào những văn bản đó để xác định rõ bị can có hành vi vượt quá chức trách, nhiệm vụ được giao trong khi thi hành công vụ hay không.

Vì sao nên sử dụng dịch vụ pháp lý tư vấn hình sự

Oan, sai, tình trạng bức cung, nhục hình trong vụ án hình sự tại Việt Nam hiện nay không còn hiếm.

Tình trạng này không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền tự do, danh dự, nhân phẩm… mà trong nhiều trường hợp, còn tước đoạt cả quyền được sống của con người;

Ngược lại, Việt Nam không hiếm trường hợp lại diễn ra tình trạng “hành chính hóa” hoặc “dân sự hóa” hành vi vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm).

Tố giác, tố cáo, tin báo tội phạm của tổ chức, doanh nghiệp, công dân không được giải quyết đúng pháp luật, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm.

Không truy tố hoặc truy tố không đúng hành vi phạm tội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, các đương sự;

Sự tham gia của luật sư trong lĩnh vực hình sự đặc biệt là với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người tố giác (tố cáo), người bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để giảm thiểu và ngăn chặn tình trạng trên.

Hoạt động bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị hại không chỉ là hoạt động nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm xã hội của người luật sư trong việc duy trì công lý.

Như vậy, trên đây là toàn bộ thông tin và nội dung tư vấn pháp luật của Luật Trần và Liên Danh liên quan đến lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Mọi thắc mắc xin liên hệ qua Hotline: Công ty luật uy tín để được giải đáp nhanh chóng, chu đáo và miễn phí!

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139