Lén lút chiếm đoạt tài sản

lén lút chiếm đoạt tài sản

Điều 173 BLHS quy định về tội Trộm cắp tài sản không mô tả hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản, tuy nhiên, thực tiễn xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người quản lý. Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản được hiểu như thế nào?

Thế nào là lén lút chiếm đoạt tài sản?

Hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là lén lút khi thực hiện một cách cố ý không cho chủ tài sản biết hành vi chiếm đoạt của mình. Người thực hiện hành vi có ý thức giấu giếm hành vi chiếm đoạt của mình, che giấu hành vi đó đối với chủ tài sản (Còn đối với những người khác thì ý thức che giấu hành vi này có thể có cũng có thể không).

Trên thực tế, sẽ có những hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản như sau:

1.Người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản che giấu toàn bộ hành vi phạm tội, che giấu với chủ tài sản và với những người có thể thấy được hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm.

Ví dụ: 12g đêm, A lẻn vào nhà B lấy xe máy, rồi lặng lẽ dắt ra cửa đi đến ngã 3 khuất người thì phá khóa nổ máy đi. Hành vi lén lút của A là lợi dụng thời gian về khuya khiến không có ai để ý, lẻn vào lấy xe máy, việc chọn thời điểm cùng với hành vi lẻn vào nhà ý chí chủ quan của A muốn cố tình che giấu toàn bộ hành vi của mình đối với B và với mọi người xung quanh, những người mà có khả năng nhìn thấy được hành vi của A.

2.Người thực hiện hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản chỉ che giấu tính phi pháp của hành vi.

Ví dụ: Lợi dụng thủ kho không để ý, K lái xe lấy thêm 2 bao hàng ngoài thỏa thuận, bỏ lên xe một cách đàng hoàng như có việc xuất hàng như bình thường. Trong tình huống này, tuy K không che dấu hành vi lấy hàng của mình nhưng K đã che giấu tính chất phi pháp của hành vi.

Tức là K đã cố tình lấy thêm 2 bao hàng không có trong thỏa thuận, hành vi lấy thêm 2 bao hàng đó là phi pháp và ý thức chủ quan của K là lợi dụng thủ kho không để ý để lấy, nhằm che đi tính phi pháp của hành vi lấy trộm. Những người không phải chủ tài sản vẫn biết sự việc xảy ra là K bốc hàng nhưng không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản.

Như vậy, một người thực hiện một trong những hành vi nêu trên được xem là lén lút chiếm đoạt tài sản, hành vi này được xác định dựa trên ý thức chủ quan của người thực hiện, tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều trường hợp nhầm lẫn.

Ví dụ: Ông B nợ ông A một khoản tiền, ông A nhiều lần đòi ông B không được, nên đến nhà ông B đòi tiền, tuy nhiên, ông B không ở nhà, gọi điện cho ông B không được nên ông A lấy bộ bàn ghế của ông B về.

Hành vi của ông A được nhiều người xác định là lén lút chiếm đoạt bộ bàn ghế vì ông A lấy tài sản khi ông B không ở nhà.

Tuy nhiên, ý thức chủ quan của ông A không phải là lén lút chiếm đoạt, cũng không muốn che giấu tính phi pháp của hành vi để chiếm đoạt bộ bàn ghế. Ông A không hề giấu giếm, ông công khai lấy bộ bàn ghế, mọi người đều biết hành vi của ông và biết hành vi đó phi pháp, nên xác định hành vi này là lén lút chiếm đoạt là không có cơ sở.

Như vậy, cần xác định rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nhằm xác định đúng tội trộm cắp tài sản như Điều 173 BLHS đã quy định.

Quy định của pháp luật về người có hành vi trộm cắp tài sản

Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về người có hành vi trộm cắp tài sản bị phạt hình sự như sau:

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Cấu thành tội phạm tội trộm cắp tài sản – điều 173 bộ luật hình sự

Mặt khách quan

Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:

– Về hành vi. Có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Trên thực tế, hành vi này làm cho chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản không thể thực hiện được các quyền năng (gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt hay quản lý) đối với tài sản của họ hoặc được giao quản lý, đồng thời những quyền này lại thuộc về người phạm tội và người này có thể thực hiện được các quyền này một cách trái pháp luật.

Ví dụ: Tên trộm đã lấy trộm một chiếc tivi mang về nhà sử dụng, sau đó bán đi.

–  Đặc trưng của hành vi chiếm đoạt được thực hiện (hành động) một cách lén lút, bí mật. Việc lén lút, bí mật là nhằm để che giấu hành vi phạm tội để chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết việc chiếm đoạt đó.

–  Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với các tội có tính chiếm đoạt khác (như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản…)

Việc che giấu hành vi phạm tội có thể được thực hiện bằng những hình thức khác nhau, cụ thể là:

+ Che giấu toàn bộ hành vi: Trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết được bất cứ thông tin nào về người phạm tội cũng như hành vi phạm tội (ví dụ: Lợi dụng đêm tối, lẻn vào nhà người khác lấy trộm tài sản).

+ Che giấu một phần hành vi: Tức chỉ che giấu riêng hành vi phạm tội (ví dụ: Kẻ phạm tội giả vờ vào hỏi chủ nhà xin nước uống, giả vờ hỏi thăm đường đi… và nhanh tay trộm tài sản giấu vào người). Trong trường hợp này chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản biết rõ người phạm tội nhưng không biết hành vi phạm tội.

+ Che giấu tính chất của hành vi phạm tội: Được hiểu là hành vi phạm tội được diễn ra công khai nhưng không ai biết việc phạm tội (ví dụ: Lợi dụng đám cưới đông người, người giữ xe tưởng là bạn bè của cô dâu, chú rể nên để cho kẻ phạm tội tự do dắt xe khỏi nơi giữ do mình quản lý).

–  Dấu hiệu khác

Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu giá trị tài sản dưới hai triệu đồng thì phải thuộc các trường hợp: Gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản (như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội cướp tài sản, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản…) nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì ngưòi thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

lén lút chiếm đoạt tài sản
lén lút chiếm đoạt tài sản

Lưu ý:

Về đối tượng của tội trộm cắp tài sản gồm: Vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản (quy định tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015).

Tuy nhiên thực tế theo chúng tôi thì quyền tài sản khó (hoặc không thể) là đốì tượng của tội trộm cắp tài sản (chẳng hạn như quyền sử dụng đất) vì quyền tài sản tuy được coi là tài sản nhưng có tính đặc thù, chỉ là một quyền năng mang tính pháp lý được Nhà nước bảo hộ, để chuyển dịch được phải thông qua các thủ tục pháp lý (thường là phức tạp) do Nhà nước quy định nên không thể lén lút mà chiếm đoạt được.

Trong  trường hợp nhất định mà chuyển dịch được quyền này thì lại cấu thành các tội phạm tương ứng khác.

Ví dụ 1: Để chuyển dịch quyền sử dụng một người đã phải giả giấy tờ mua bán có công chứng để chuyển dịch quyền sử dụng đất của người khác thành của mình tức sang tên của mình. Trong trường hợp này hành vi nêu trên cấu thành tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức.

Ví dụ 2: Một người không đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất (bằng giấy tay) cho một ngưòi khác bằng thủ đoạn là nói với người mua rằng đất này là do mình là chủ sử dụng để người mua giao tiền.

Tuy nhiên thực chất thì chủ sử dụng đất là người đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trong trường hợp này hành vi nêu trên cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong thực tiễn (qua thông tin từ báo, đài, Tạp chí Toà án được biết) các cơ quan pháp luật còn truy tố và xét xử hành vi “Trộm cước viễn thông” với tội danh là trộm cắp tài sản.

Theo quan điểm của chúng tôi việc truy tố, xét xử “hành vi trộm cước viễn thông” như nêu trên là không có căn cứ nếu xét trên hai phương diện sau:

Thứ nhất: Cước viễn thông – (tức tiền cước) được xem là tài sản vì đây là lợi tức (nếu đã thu được tiền cước) của tài sản là các máy móc, thiết bị về viễn thông mà đơn vị khai thác kinh doanh thu được.

Vì vậy nếu hành vi trộm cắp mà đối tượng bị chiếm đoạt là số tiền đã thu được của các đơn vị cung cấp dịch vụ thì chủ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, còn việc sử dụng lén lút của đường truyền (gồm vô tuyến, hữu tuyến) mà không trả tiền cho đơn vị khai thác (tức nhà cung cấp là các công ty viễn thông), kinh doanh chỉ có thể là hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nếu là nợ tiền cước hoặc là hành vi sử dụng trái phép tài sản nếu là lén lút sử dụng không trả tiền chứ không phải là hành vi trộm cắp tài sản.

+ Thứ hai: Trường hợp sử dụng lén lút đường truyền là sóng (tần số) vô tuyến để khai thác kinh doanh thu lợi bất chính thì cũng không phải là hành vi trộm cắp tài sản.

Theo chúng tôi hành vi trên cấu thành một trong hai tội là tội sử dụng trái phép tài sản của người khác hoặc tội kinh doanh trái phép là hợp lý hơn cả.

Thứ ba: Sóng vô tuyến (tần số vô tuyến) không phải là tài sản, cũng không được xem là quyền tài sản nếu xét theo khái niệm được quy định trong Bộ luật Dân sự.

Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Và đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản, bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá.

Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

Chủ thể tội này quy định tại tất cả các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 173 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định tại các khoản 3 và 4 Điều 173 BLHS.

Mặt chủ quan của tội phạm

Tội trộm cắp tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp.

Người phạm tội nhận thức rõ đó là tài sản thuộc sở hữu của người khác chứ không phải tài sản vô chủ, nhận thức rõ việc mình chiếm đoạt tài sản đó là vi phạm pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện và mong muốn chiếm đoạt được tài sản.

Tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm hữu trái phép tài sản của người khác để tạo cho mình khả năng định đoạt tài sản đó một cách lén lút, nhằm không cho chủ quản lý tài sản biết có việc chiếm đoạt xảy ra.

Người phạm tội thực hiện hành vi cũng mong muốn che giấu hành vi chiếm đoạt. Việc che dấu này thường là che giấu cả về hình thức và tính chất bất hợp pháp của hành vi, nhưng cũng có trường hợp chỉ cần che giấu tính bất hợp pháp của hành vi, cũng được coi là hành vi chiếm đoạt có tính lén lút.

Hành vi trộm cắp tài sản phải tác động đến tài sản đang có người khác quản lý. Những tài sản đã thoát ly sự quản lý của chủ sở hữu hay người quản lý hợp pháp thì không coi là đối tượng chiếm đoạt của hành vi trộm cắp.

Tội trộm cắp tài sản hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản, tùy vào loại tài sản và vị trí để tài sản mà thời điểm chiếm đoạt được tài sản có thể được xác định khác nhau với từng trường hợp cụ thể.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác chỉ cấu thành tội trộm cắp tài sản khi tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên, quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Trường hợp tài sản bị chiếm đoạt có giá trị dưới hai triệu đồng, thì phải kèm theo một trong bốn điều kiện sau:

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

+ Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

+ Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

Nội dung mới được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 là di vật, cổ vật, Di vật có thể hiểu là những vật tuy giá trị về mặt tài sản là không lớn, thậm chí không có giá trị lưu thông trên thị trường nhưng có giá trị lớn về mặt tinh thần đối với chủ sở hữu.

Tội trộm cắp tài sản thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn hậu quả xảy ra với mục đích là chiếm đoạt tài sản của người khác.

Trên đây là một số nội dung về điều 173 bộ luật hình sự và hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139