Khái niệm tội phạm về chức vụ là gì?

Khái niệm tội phạm về chức vụ là gì?

Trong những năm gần đây, các tội phạm về chức vụ có lẽ đang trở thành “xu thế” và đây đang trở thành vấn nạn mà cả xã hội đang lên án. Bởi lẽ, đây là các hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của nhà nước, gây ảnh hưởng đến uy tín trong công tác tổ chức quản lý nhà nước. Khái niệm tội phạm về chức vụ là gì? Để ngăn chặn tình trạng này, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã ghi nhận các tội phạm này và có các cơ chế xử lý. 

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 352 Bộ luật hình sự năm 2015

Điều 352 Bộ luật hình sự quy định tội khái niệm tội phạm về chức vụ như sau như sau:

Các tội phạm về chức vụ được quy định tại Chương XXIII Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 ngày 27/11/2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 12/2017/QH14 ngày 26/06/2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự).

Gồm 15 Điều luật cụ thể như sau:

Điều 352. Khái niệm tội phạm về chức vụ

Điều 353. Tội tham ô tài sản

Điều 354. Tội nhận hối lộ

Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Điều 356. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

Điều 357. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ

Điều 358. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

Điều 359. Tội giả mạo trong công tác

Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Điều 361. Tội cố ý làm lộ bí mật công tác; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác

Điều 362. Tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác

Điều 363. Tội đào nhiệm

Điều 364. Tội đưa hối lộ

Điều 365. Tội môi giới hối lộ

Điều 366. Tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi

Khái niệm tội phạm về chức vụ là gì?
Khái niệm tội phạm về chức vụ là gì?

Dấu hiệu pháp lý của các tội tội phạm về chức vụ

Khách thể của tội phạm về chức vụ – Điều 352 Bộ luật hình sự

Khách thể của các tội phạm về chức vụ xâm phạm là sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan hoặc tổ chức. Ngoài ra, một số tội phạm này còn xâm phạm quan hệ sở hữu của Nhà nước, của các tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc quy định các tội phạm về chức vụ trong Bộ luật hình sự là một trong những biện pháp hữu hiệu không chỉ nhằm bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của các tổ chức đạt hiệu quả mà còn bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, của các tổ chức, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Mỗi cơ quan hoặc tổ chức có một chức năng, nhiệm vụ nhất định và hoạt động trên cơ sở các qui định của Nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật hoặc điều lệ. Việc qui định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước và của các tổ chức, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức được hiểu là hoạt động của các cơ quan, tổ chức đó được tiến hành trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật. Mọi hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đều có thể gây thiệt hại ở những mức độ khác nhau cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Mặt khách quan của tội phạm về chức vụ Điều 352 Bộ luật hình sự

Mặt khách quan của các tội phạm về chức vụ được thể hiện ở hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện trong khi thi hành công vụ, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. Việc thực hiện các hành vi này của người có chức vụ, quyền hạn phải liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà người phạm tội được cơ quan, tổ chức giao cho. Nếu thiếu dấu hiệu này, thì hành vi vi phạm pháp luật do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không cấu thành tội phạm về chức vụ.

Hành vi phạm tội về chức vụ có thể biểu hiện cả dưới dạng hành động hoặc không hành động. Người có chức vụ, quyền hạn có thể trực tiếp lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình (trong phạm vi thẩm quyền công tác) để phạm tội hoặc lợi dụng địa vị, uy tín, mối quan hệ trong công tác, khả năng, điều kiện để thúc đẩy người khác có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không được phép (ngoài phạm vi thẩm quyền công tác). Hành vi phạm tội về chức vụ dưới hình thức không hành động được thể hiện ở chỗ, người có chức vụ, quyền hạn không thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, hoặc không làm một việc phải làm gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Chủ thể của tội phạm Điều 352 Bộ luật hình sự

Chủ thể của các tội phạm về chức vụ được qui định tại chương XXIII chỉ có thể là người có chức vụ, quyền hạn nhất định. Người có chức vụ ở đây có thể là người do bổ nhiệm, do dân cử hoặc là do hợp đồng hoặc một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó. Những người khác có thể là chủ thể của các tội phạm này trong trường hợp đồng phạm. Người có chức vụ thường có thể là những người sau đây:

+ Người đại diện chính quyền, tức là người có quyền ra những quyết định có tính chất bắt buộc đối với người khác. Trong một số trường hợp nhất định, họ còn có thể áp dụng một số biện pháp cưỡng chế đối với người khác như người đại diện Uỷ ban nhân dân các cấp, đại diện cơ quan công an, thanh tra, hải quan,… Dân quân, du kích, thanh niên cờ đỏ, dân phòng hoặc bất kỳ người nào khi được giao nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh cũng được coi là người đại diện chính quyền, vì trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình họ có quyền ra quyết định mang tính bắt buộc đối với người khác.

+ Người thực hiện chức năng tổ chức, quản lý đối với người khác là người giữ chức vụ lãnh đạo trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện,… Những người này có quyền theo dõi, chỉ đạo, tuyển dụng, thuyên chuyển, khen thưởng, đề bạt, kỷ luật,… đối với nhân viên’dưới quyền.

+ Người có chức năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài sản,… như kế toán trưởng, thủ quỹ, thủ kho, người quản lý vật tư, hàng hoá, nhân viên bán hàng,…

Đối với một số trường hợp, chủ thể của tội phạm quy định trong Chương XXI Bộ luật hình sự không phải là người có chức vụ, quyền hạn nhưng đã lợi dụng người có chức vụ quyền hạn để xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan hoặc tổ chức như: tội đưa hối lộ; tội làm môi giới hối lộ;…

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 352 Bộ luật hình sự

Các tội phạm về chức vụ có thể được thực hiện do lỗi cố ý hoặc do lỗi vô ý. Phần lớn các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi cố ý như các tội phạm về tham nhũng. Đối với các tội phạm về chức vụ do lỗi cố ý, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hoặc để mặc cho hành vi đó xảy ra.

Đối với các tội phạm thực hiện với lỗi vô ý, người phạm tội thấy được hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc không thấy trước được khả năng sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Những người này phạm tội là do tắc trách, thiếu trách nhiệm, thờ ơ với chức năng, nhiệm vụ của mình nên đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội 

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 352 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139