Điều 412 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự

Điều 412 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự

Tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật là một trong những tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự.  Hành vi của người được giao vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự để thực hiện nhiệm vụ nhưng sử dụng không đúng mục đích, trái quy định, gây hậu quả nghiêm trọng. Vậy Điều 412 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự là gì? 

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 412 Bộ luật hình sự 2015

Điều 412 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự như sau:

“Điều 412. Tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự

1. Người nào vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Trong chiến đấu;

b) Trong khu vực có chiến sự;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.”

Dấu hiệu pháp lý của tội phạm tại Điều 412 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 412 Bộ luật hình sự

Để Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như người bộ đội có thể thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ đất nước, bảo vệ Đảng và nhân dân, vũ khí, trang thiết bị cần thiết phục vụ cho quân ngũ là những thứ không thể thiếu. Tuy nhiên, những vũ khí, trang thiết bị như súng, xe tăng,… có thể gây nguy hiểm cho người chiến sĩ, cán bộ, người dân bình thường hoặc gây thiệt hại về vật chất cho quân đội hoặc nhân dân.

Do đó, cần có những quy định cụ thể về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự.

Tội vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng trong Quân đội, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác, tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của công dân.

Đối tượng của tội phạm là vũ khí quân dụng và trang bị kỹ thuật quân sự. Theo Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số: 14/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017, sửa đổi, bổ sung năm 2019 quy định:

“Điều 3. Giải thích từ ngữ

Vũ khí quân dụng bao gồm:

a) Vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định của Luật này để thi hành công vụ, bao gồm:

Súng cầm tay: súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng chống tăng, súng phóng lựu;

Vũ khí hạng nhẹ: súng đại liên, súng cối, súng ĐKZ, súng máy phòng không, tên lửa chống tăng cá nhân;

Vũ khí hạng nặng: máy bay chiến đấu, trực thăng vũ trang, xe tăng, xe thiết giáp, tàu chiến, tàu ngầm, pháo mặt đất, pháo phòng không, tên lửa;

Bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi; đạn sử dụng cho các loại vũ khí quy định tại điểm này;

b) Vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như vũ khí quy định tại điểm a khoản này, không được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác quy định tại Điều 18 của Luật này để thi hành công vụ.”

Như vậy, khách thể của tội phạm là chế độ quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng trong Quân đội, tính mạng, sức khoẻ của người khác, tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của công dân.

Điều 412 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự
Điều 412 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự

Mặt khách quan của tội phạm Điều 412 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự gây hậu quả nghiêm trọng. Thể hiện ở hành vi của người được trang bị vũ khí quân dụng đã sử dụng vũ khí đó không đúng mục đích trang bị gây hậu quả nghiêm trọng.

Vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí quân dụng là hành vi phát huy tính năng của vũ khí nhằm mục đích nào đó không đúng quy định như: dùng súng đi bắn chim, cá, gây tiếng nổ… Các quy định này được cụ thể hoá trong các văn bản khác nhau đối với từng loại vũ khí quân dụng. Để xác định hành vi có cấu thành tội vi phạm các quy định về vũ khí quân dụng, cần

Hậu quả nghiêm trọng xảy ra là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm. Hậu quả này có thể là thiệt hại về vật chất (về tính mạng, sức khoẻ, về tài sản) hoặc thiệt hại phi vật chất.

Trường hợp hậu quả nghiêm trọng không xảy ra, người thực hiện hành vi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này nhưng sẽ bị xử lý kĩ luật theo quy định tại Điều 27 Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định về việc áp dụng các hình thức kỉ luật, trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỉ luật trong Bộ Quốc phòng:

“Điều 27. Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự

Quản lý, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự sai quy định để xảy ra mất an toàn về người, vũ khí, trang bị, phương tiện, tài sản thì bị kỷ luật từ cảnh cáo, hạ bậc lương đến giáng cấp bậc quân hàm.

Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ giáng chức, cách chức, tước quân hàm sĩ quan đến tước danh hiệu quân nhân, buộc thôi việc:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Là người có chuyên môn nghiệp vụ về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự;

c) Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm.”

Chủ thể của tội phạm Điều 412 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Họ chỉ có thể là:

“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 412 Bộ luật hình sự

Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý, có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.

Theo Điều 11 Bộ luật Hình sự, vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

– Vô ý do quá tự tin : Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

– Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Hình phạt tại Điều 412 Bộ luật hình sự 2015

Điều 412 BLHS năm 2015 quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 412 Bộ Luật hình sự: Người nào vi phạm quy định về sử dụng vũ khí quân dụng, trang bị kỹ thuật quân sự gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 412 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

  • Trong chiến đấu;                    
  • Trong khu vực có chiến sự;
  • Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 412 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 412 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139