Chống mệnh lệnh là một tội danh được quy định tại Bộ luật hình sự 2015. Đây là một hành vi hết sức nguy hiểm, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của đơn vị, đến quan hệ chỉ huy, phục tùng của quân đội. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, bài viết dưới đây của Luật Trần và Liên Danh sẽ cung cấp cho bạn đọc những nội dung quy định của pháp luật về Điều 394 Bộ luật hình sự quy định tội chống mệnh lệnh.
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 394 Bộ luật hình sự 2015
Điều 394 Bộ luật hình sự quy định tội chống mệnh lệnh như sau:
“Điều 394. Tội chống mệnh lệnh
1. Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
b) Lôi kéo người khác phạm tội;
c) Dùng vũ lực;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Trong chiến đấu;
b) Trong khu vực có chiến sự;
c) Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
d) Trong tình trạng khẩn cấp;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.”
Dấu hiệu pháp lý tại Điều 394 Bộ luật hình sự 2015
Khách thể của tội phạm – Điều 394 Bộ luật hình sự
Tội chống mệnh lệnh là hành vi của cấp dưới trong quân đội, từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền.
Tội phạm này xâm phạm đến quan hệ chỉ huy, phục tùng trong quân đội.
Điều 26 Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định rõ trách nhiệm của sĩ quan như sau:
“Điều 26. Nghĩa vụ của sĩ quan
Sĩ quan có nghĩa vụ sau đây:
…
Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia;”
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 394 Bộ luật hình sự
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này được thể hiện ở hành vi từ chối chấp hành hoặc cố tình không thực hiện mệnh lệnh của người chỉ huy trực tiếp hoặc của cấp trên có thẩm quyền.
Từ chối không thực hiện mệnh lệnh là hành vi, có thể bằng lời nói hoặc hành động, công khai thể hiện sự chống lại mệnh lệnh của người chỉ huy có thẩm quyền.
Cố tình không thực hiện mệnh lệnh là hành vi tuy không công khai thể hiện sự chống lại mệnh lệnh nhưng cố tình không thực hiện nhiệm vụ được giao, mặc dù không có trở ngại gì.
Người chỉ huy trực tiếp là quân nhân được giao chỉ huy một tổ chức bộ đội nhất định từ tiểu đội hoặc tương đương trở lên và người phạm tội thuộc trong biên chế của tổ chức đó. Cấp trên có thẩm quyền là người có chức vụ cao hơn (nếu người phạm tội và người bị hại cùng biên chế trong một tổ chức bộ đội nhất định) hoặc là người có cấp bậc quân hàm cao hơn (nếu không cùng biên chế trong một tổ chức bộ đội).
Nếu người phạm tội và người bị hại không cùng biên chế trong một tổ chức bộ đội nhất định nhưng cùng được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định thì người được giao phụ trách là cấp trên, nếu không ai được giao phụ trách thì người có cấp bậc quân hàm cao hơn là cấp trên.
Mệnh lệnh là lệnh của cấp trên (bằng lời nói hoặc văn bản) bắt buộc cấp dưới phải chấp hành. Mệnh lệnh có thể bị chống lại một phần hay toàn bộ. Mệnh lệnh này phải là mệnh lệnh hợp pháp của người chỉ huy có thẩm quyền.
Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người vi phạm thực hiện một trong các hành vi nêu trên.
Chủ thể của tội phạm – Điều 394 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội chống mệnh lệnh là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người phục vụ trong quân đội mới có thể bị bắt buộc phục tùng mệnh lệnh.
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội ra mệnh lệnh trái pháp luật là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 394 Bộ luật hình sự
Tội chống mệnh lệnh được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, tức là người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hành vi chống mệnh lệnh của mình, biết trước được hậu quả của hành vi này nhưng mong muốn hậu quả xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ phạm tội có thể là do thù tức đối với người chỉ huy, động cơ cá nhân, sợ hy sinh, gian khổ,…Mục đích phạm tội rất đa dạng và có thể là nhằm để người chỉ huy không hoàn thành nhiệm vụ, bị mất uy tín hoặc để được thay đổi nhiệm vụ, vị trí công tác,… Động cơ và mục đích phạm tội tuy không phải là yếu tố bắt buộc để định tội nhưng có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Hình phạt tại Điều 394 Bộ luật hình sự
Điều 394 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 394 Bộ Luật hình sự: Người nào từ chối chấp hành hoặc cố ý không thực hiện mệnh lệnh của người có thẩm quyền, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 394 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
- Lôi kéo người khác phạm tội;
- Dùng vũ lực;
- Gây hậu quả nghiêm trọng.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 394 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
- Trong chiến đấu;
- Trong khu vực có chiến sự;
- Trong thực hiện nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn;
- Trong tình trạng khẩn cấp;
- Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 394 Bộ Luật hình sự: Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 394 BLHS năm 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 394 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.