Trong cuộc sống hôn nhân thường ngày việc bảo đảm nguyên tắc một vợ, một chồng là một trong những nguyên tắc cơ bản để đảm bảo cuộc sống hôn nhân theo chế độ hôn nhan gia đình ở Việt Nam nhằm bảo vệ các quyền và nghĩa bị của hai bên trong mối quan hệ hôn nhân. Như vậy để hiểu thêm về Điều 182 BLHS năm 2015 quy định tội vi phạm chế độ một vợ một chồng mời các bạn cùng Luật Trần và Liên Danh tham khảo bài viết dưới đây:
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 182 Bộ luật hình sự năm 2015
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng tại Điều 182 BLHS năm 2015 là việc nam, nữ đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc tuy chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, đang có vợ.
Điều 182 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định như sau:
Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Phân tích các dấu hiệu pháp lý của Điều 182 Bộ luật hình sự năm 2015
Khách thể của tội phạm – Điều 182 Bộ luật hình sự
Tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 182 Bộ luật hình sự
Mặt khách quan của tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thể hiện ở hành vi của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ.
+ Người đang có vợ hoặc có chồng là người đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và chưa chấm dứt quan hệ vợ chồng.
+ Người chưa có vợ, có chồng là người chưa kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình hoặc đã từng kết hôn nhưng đã chấm dứt quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật.
Hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà kết hôn với người khác là hành vi của người đang có vợ, có chồng mà lại đăng ký kết hôn với người khác (người đã có chồng, có vợ hoặc chưa có chồng, có vợ) tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác là hành vi của người đang có vợ hoặc có chồng mà tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng với người khác (người đã có chồng hoặc có vợ hoặc chưa có chồng, có vợ).
Hành vi của người chưa có vợ, chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ là hành vi của người chưa có vợ, chưa có chồng mà tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng với người biết rõ là đang có chồng hoặc có vợ.
Tuy nhiên, hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v…
+ Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng mà còn vi phạm, nếu trước đó đã bị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn thực hiện hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Trong trường hợp đã có quyết định của Tòa án tiêu huỷ việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng theo khoản 2 Điều 147 BLHS mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội không chấp hành án theo Điều 304 BLHS.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 182 Bộ luật hình sự
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
Chủ thể của tội phạm – Điều 182 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm là người đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. Người phạm tội có thể là người đang có vợ, có chồng hoặc chưa có vợ, có chồng.
Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng? Ngoại tình với người cùng giới có vi phạm pháp luật không? (Hình minh họa)
Mức hình phạt tại Điều 182 Bộ luật hình sự năm 2015
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 182 Bộ Luật hình sự:
Người phạm tội bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 182 Bộ Luật hình sự:
Người phạm tội bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.
Đây là trường hợp phạm tội mà hành vi phạm tội dẫn đến hậu quả là vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên thực hiện hành vi tự sát. Tuy nhiên, người phạm tội không cố ý làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát.
+ Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Ngoại tình với người cùng giới có vi phạm pháp luật không?
Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định nào định nghĩa thế nào là ngoại tình nhưng qua thực tế có thể thấy ngoại tình được hiểu là một người đã kết hôn nhưng lại có quan hệ tình cảm, chung sống như vợ chồng với người khác,…
Có thể nói, ngoại tình không những trái với đạo đức xã hội mà còn vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Trong những trường hợp ngoại tình thông thường, nếu thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội vi phạm chế độ một vợ một chồng thì có thể bị xử lý hình sự. Vậy ngoại tình với người cùng giới tính có vi phạm pháp luật?
Đối với vấn đề này, hiện nay có hai luồng quan điểm như sau:
Thứ nhất, ngoại tình với người cùng giới vi phạm pháp luật.
Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định: “Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác…”. Theo đó, “người khác” ở đây không phân biệt nam hay nữ, hay bất kỳ giới tính nào khác nên ngoại tình với người cùng giới vẫn có thể bị xử lý hình sự.
Thứ hai, ngoại tình với người cùng giới không vi phạm pháp luật.
Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” nên việc kết hôn với người khác theo quy định tại Điều 182 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là không thể xảy ra. Đồng thời, việc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng giới cũng rất khó chứng minh. Vì vậy, ngoại tình với người cùng giới không vi phạm pháp luật.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam vẫn chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể về vấn đề này nên đối với hai luồng quan điểm trên vẫn chưa thể đưa ra kết luận quan điểm nào đúng, quan điểm nào sai. Đây là một vấn đề cần được các nhà làm luật quan tâm hơn nữa bởi lẽ khi mà xã hội phát triển, những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền về giới tính cũng càng được tôn trọng và bảo vệ nhiều hơn.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 182 BLHS năm 2015 năm về Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.