Điều 146 BLHS năm 2015 quy định Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Điều 146 BLHS năm 2015 quy định Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Điều 146 BLHS năm 2015 quy định Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Bên cạnh đó, BLHS cũng quy định các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm này cũng có một số vướng mắc bất cập.

Tại Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của TANDTC đã hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS. Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ đưa ra quan điểm nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS đối với tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐIỀU 146 BLHS NĂM 2015

Điều 146 BLHS năm 2015 quy định Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi
Điều 146 BLHS năm 2015 quy định Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Điều 146. Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Phạm tội có tổ chức;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

đ) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

b) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

PHÂN TÍCH CẤU THÀNH TỘI PHẠM 

Khách thể tại Điều 146 BLHS năm 2015

Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi xâm phạm đến quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm và cụ thể ở đây là quyền được phát triển bình thường về tình dục của người dưới 16 tuổi. Để xâm phạm đến khách thể này, đòi hỏi tội phạm phải tác động vào người dưới 16 tuổi. Đối Nếu người có hành vi dâm ô đối với người trên 16 tuổi thì không bị coi là tội phạm.

Mặt khách quan tại Điều 146 BLHS năm 2015

Khoản 1 Điều 146 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”.

Trong BLHS năm 2015, nhà làm luật đã bổ sung dấu hiệu “không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác” là dấu hiệu cụ thể hóa hành vi khách quan của tội dâm ô đối với trẻ em, đồng thời phân biệt hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đối với các hành vi khách quan của các tội phạm về tình dục khác được quy định trong BLHS năm 2015. Về bản chất thì dấu hiệu này không phải là dấu hiệu mô tả hành vi khách quan của tội phạm mà đây là dấu hiệu để nhà làm luật phân biệt hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và với một số hành vi liền trước hành vi “giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác” ở trong tội phạm khác.

Giống như quy định của BLHS năm 1999,  BLHS năm 2015 cũng không mô tả cụ thể hành vi của tội phạm mà chỉ quy định “người nào dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”. Việc không mô tả cụ thể hành vi phạm tội của tội phạm này thể hiện văn hóa pháp lí của nhà nước ta. Theo đó nhà làm luật tránh mô tả các từ ngữ nhạy cảm trong BLHS mà sẽ mô tả, giải thích nó trong các văn bản hướng dẫn.

Từ trước đến nay,về mặt pháp lý định nghĩa hành vi “dâm ô” thường được viện dẫn theo Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục số 329-HS2 ngày ngày 11 tháng 05 năm 1967 (Bản tổng kết 329-HS2). Theo Bản tổng kết số 329-HS2 thì hành vi dâm ô được hiểu là:“Dâm ô tức là có hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn tình dục của mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục người đó” .

Thông tư liên tịch số 01/1998 ngày 02 tháng 01 năm 1998 của TANDTC-VKSNDTC-BNV hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự đã giải thích: “Hành vi dâm ô đối với trẻ em quy định tại Điều 202b là hành vi của người phạm tội, như sờ, bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của trẻ em hoặc buộc trẻ em phải có hành vi như sờ, bóp… vào những bộ phận kích thích tình dục của người đó hoặc của người khác nhưng không có việc giao cấu với trẻ em.

 Theo hai văn bản trên thì hành vi dâm ô là một dạng hành vi xâm hại tình dục đối với trẻ em. Đây là các hành vi sử dụng trẻ em như một công cụ nhằm thỏa mãn hoặc khêu gợi nhu cầu tình dục của chính bản thân người phạm tội hoặc khêu gợi bản năng tình dục của người khác nhưng không phải là hành vi “giao cấu”. Các hành vi này chỉ dừng lại ở việc tác động ở bên ngoài cơ thể của nạn nhân mà không có sự giao cấu hoặc không có mục đích giao cấu với nạn nhân.

Tuy nhiên, với việc quy định thêm “hành vi quan hệ tình dục khác” là hành vi khách quan của tội hiếp dâm, cưỡng dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi trong BLHS năm 2015 đã làm thu hẹp phạm vi hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và quan niệm về hành vi dâm ô theo bản tổng kết 329-HS2 không phù hợp với quy định hiện nay nữa. Do đó, việc phân biệt hành vi dâm ô và hành vi quan hệ tình dục khác có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn đối với yêu cầu đấu tranh chống và phòng ngừa các tội phạm xâm hại tình dục đối với trẻ em.

Có rất nhiều quan điểm khoa học khác nhau đưa ra về hành vi quan hệ tình dục khác và hành vi dâm ô, nhưng đây chỉ là các quan điểm khoa học chứ không phải văn bản hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền nên chỉ mang tính tham khảo chứ không có giá trị áp dụng bắt buộc. Bản thân các tác giả khi nghiên cứu về nhóm tội phạm này cũng đề xuất sớm phải có văn bản hướng dẫn áp dụng để thống nhất nhận thức và đường lối xét xử nhóm tội phạm này.

Theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi thì hành vi dâm ô là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục. Hành vi này có thể bao gồm một số dạng sau:

–  Dùng bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác của người dưới 16 tuổi;

–  Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: tay, chân, miệng, lưỡi…) tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

–  Dùng dụng cụ tình dục tiếp xúc (ví dụ: đụng chạm, cọ xát, chà xát…) với bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm của người dưới 16 tuổi;

–  Dụ dỗ, ép buộc người dưới 16 tuổi dùng bộ phận khác trên cơ thể của họ tiếp xúc (ví dụ: vuốt ve, sờ, bóp, cấu véo, hôn, liếm…) với bộ phận nhạy cảm của người phạm tội hoặc của người khác;

–  Các hành vi khác có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục (ví dụ: hôn vào miệng, cổ, tai, gáy… của người dưới 16 tuổi).” 

 Ngoài việc giải thích thế nào là hành vi dâm ô, Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP cũng quy định rõ về hành vi quan hệ tình dục khác từ đó làm cơ sở để phân biệt hành vi dâm ô và hành vi quan hệ tình dục khác. Theo đó hành vi quan hệ tình dục khác được hiểu là: “hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:

a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;

b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.”

Như vậy, theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP thì hành vi quan hệ tình dục khác phải là các hành vi có sự xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào miệng, hậu môn của người khác; hoặc sử dụng bộ phận sinh dục bộ phận khác, hoặc dụng cụ tình dục để xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác; còn đối với hành vi dâm ô thì chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc (trực tiếp hoặc gián tiếp) bộ phận sinh dục và bộ phận nhạy cảm mà không nhằm xâm nhập vào trong.

Hành vi dâm ô không chỉ dừng lại ở việc tiếp xúc, động chạm giữa các bộ phận trên cơ thể của người phạm tội và người dưới 16 tuổi mà còn có thể là việc để cho người dưới 16 tuổi chứng kiến các hành vi tình dục của người phạm tội hoặc của người khác. Việc để cho người dưới 16 tuổi chứng kiến các hành vi tình dục của người phạm tội hoặc của người khác tuy không tác động trực tiếp đến cơ thể của người dưới 16 tuổi nhưng cũng có thể khơi gợi nhu cầu tình dục của người dưới 16 tuổi, gây ra những ảnh hướng xấu đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của người dưới 16 tuổi. Do vậy, đây cũng được coi là một dạng của hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP thì hành vi dâm ô hiện nay chỉ giới hạn giữa việc tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục. Còn hành vi buộc người dưới 16 tuổi trực tiếp chứng kiến các hành vi tình dục được giải thích là hành vi trình diễn khiêu dâm của tội sử dụng trẻ em vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS năm 2015) nên không còn được coi là dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Hậu quả không phải là dấu hiệu định tội của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Giống như các tội phạm về tình dục khác, dấu hiệu hậu quả của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không được quy định là dấu hiệu bắt buộc để định tội danh mà được quy định là dấu hiệu định khung tăng nặng hoặc tình tiết để đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Mặt chủ quan tại Điều 146 BLHS năm 2015

Về mặt chủ quan, tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đòi hỏi hai dấu hiệu là lỗi cố ý và mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục hoặc kích thích, khơi gợi nhu cầu tình dục của người dưới 16 tuổi.

Lỗi của người phạm tội dâm ô đối với trẻ em là lỗi cố ý. Trong trường hợp phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đòi hỏi người phạm tội phải nhận thức được hành vi của mình là hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi, tức là nhận thức được hành vi của mình thực hiện các hành vi tình dục với người dưới 16 tuổi nhưng không phải là hành vi giao cấu. Người phạm tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tình dục hoặc kích thích, khơi gợi nhu cầu tình dục của người dưới 16 tuổi. Do vậy để đạt được mục đích này họ mong muốn thực hiện hành vi dâm ô đối với trẻ em hoặc chấp nhận hành vi của mình có thể là dâm ô đối với người dưới 16 tuổi.

Mục đích của người thực hiện hành vi dâm ô đối với trẻ em là nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình hoặc kích thích, khêu gợi nhu cầu tình dục của chính mình hoặc của trẻ em. Trong trường hợp, người thực hiện hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi mà có mục đích khác thì họ có thể không bị truy cứu TNHS về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi mà có thể bị truy cứu TNHS về một tội khác. Ví dụ: Người phạm tội thực hiện các hành vi dâm ô đối với trẻ em mục đích bôi nhọ hoặc trả thù thì có thể bị xử lý về tội làm nhục người khác (Điều 155 BLHS năm 2015).

Chủ thể tại Điều 146 BLHS năm 2015

Chủ thể của Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là chủ thể đặc biệt. Theo đó chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 18 tuổi. Theo đó người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm về hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Việc giới hạn phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi, một mặt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.

Trên đây là nội dung tại Điều 146 BLHS năm 2015 nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139