Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 127 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

Trong quá trình thi hành công vụ dẫn đến chết người thì người thi hành công vụ có thể bị truy tố theo Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định tại Điều 127 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Định nghĩa về Tội làm chết người trong thi hành công vụ:

Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định là hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ do dùng vũ lực ngoài những trường họp pháp luật cho phép.

Cấu thành tội phạm của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:

Dấu hiệu chủ thể của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:

Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ chỉ có thể là những người đang thi hành công vụ. Khác với các chủ thể của tội phạm khác, tội phạm này có chủ thể khá đặc biệt. Người thi hành công vụ được hiểu là người có chức vụ quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc to chức xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung,…

“Người thi hành công vụ là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và cũng có thể là những công dân được huy động làm nhiệm vụ (như tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung hoặc chấp hành hình phạt tù đang chống trả, đe dọa tính mạng, sức khoẻ của người thi hành công vụ hoặc người khác;

đối tượng đang đánh tháo người bị dẫn giải, người bị giam, giữ, áp giải do phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tại phạm ngụy hiểm.

d) Khi biết rõ đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;

đ) Được nổ súng vào phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa, trừ phương tiện giao thông của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quari lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế để dừng phương tiện đó trong trường hợp đoi tượng điều khiển phương tiện đỏ tẩn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác;

khi biết rõ phương tiện do đoi tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở người hoặc có con tin.

Người thi hành nhiệm vụ độc lập được nổ súng vào đối tượng không cần cảnh báo trong trường hợp sau đây:

a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó;

b) Nổ súng vào đổi tượng đang đột nhập vào khu vực, mục tiêu cảnh vệ, sau khi đã ra hiệu lệnh dừng lại và bẳn chỉ thiên nhưng không hiệu quả;

c) Vô hiệu hoá đối tượng đang có hành vi tấn công trực tiếp đối tượng cảnh vệ hoặc cán bộ, chiến sĩ cảnh vệ đang thực hiện nhiệm vụ;

d) Trường hợp nổ súng khác quy định tại Luật quản lí, sử dụng vũ khí, vật liệunổ và công cụ hỗ trợ. ”

Mặt khách quan của tội làm chết người trong thi hành công vụ:

Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

Hành vi khách quan của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi dùng vũ lực để thực hiện công vụ ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép. Trong những hành vi này thì thông thường là những hành vi sử dụng vũ khí ngoài những trường hợp mà pháp luật cho phép.

Theo nghị định số 94/HĐBT ngày 02/7/1984 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), chỉ được nổ súng vào các đối tượng cụ thể sau khi đã có lệnh hoặc bắn cảnh các mà đối tượng vẫn không tuân lệnh, trừ trường hợp đặc biệt cấp bách không có biện pháp nào khác để ngăn chặn ngay đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng hoặc để thực hiện quyền phòng vệ chính đáng theo luật định. Những đối tượng đó là:

– Những kẻ đang dùng vũ lực gây bạo loạn, đang phá hoại, đang hành hung cán bộ, chiến sĩ bảo vệ, đang tấn công đối tượng hoặc mục tiêu bảo vệ.

– Những kẻ đang phá trại giam, cướp phạm nhân, những phạm nhân đang nổi loạn, cướp vũ khí, phá trại giam hoặc dùng vũ lực uy hiếp tính mạng cán bộ chiến sĩ làm nhiệm vụ quản lý, canh gác, dẫn giải tội phạm; những kẻ phạm tội nguy hiểm đang bị giam giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang có lệnh bắt giữ mà chạy trốn;

– Những kẻ không tuân lệnh của cán bộ, chiến sĩ đang tiến hành tuần tra, canh gác, khám, lại dùng vũ lực chống lại, uy hiếp nghiêm trọng tính mạng của cán bộ thừa hành nhiệm vụ hoặc tính mạng của nhân dân;

– Người điều khiển phương tiện không tuân lệnh, cố tình chạy trốn, khi người kiểm soát phương tiện giao thông vận tải ra lệnh và đã biết rõ trên phương tiện đó có vũ khí hoặc tài liệu phản động, có tài liệu bí mật quốc gia, có tài sản đặc biệt quý giá của Nhà nước.

Những hành vi dùng vũ khí ngoài những trường hợp nói trên đều bị coi là hành vi dùng vũ khí ngoài những trường hợp pháp luật cho phép và có thể trở thành hành vi khách quan của tội phạm chết người trong khi thi hành công vụ. Tuy hiện tại nghị định số 94/HĐBT ngày 02/7/1984 không còn phù hợp nữa nhưng vẫn là một phần tài liệu để có thể hiểu sâu hơn về mặt khách quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.

Dấu hiệu hậu quả của Tội chết người trong khi thi hành công vụ:

Dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định là hậu quả chết người. Hậu quả này có nguyên nhân là hành vi dùng vũ lực ngoài nhũng trường hợp pháp luật cho phép hay nói cách khác, cấu thành tội phạm đòi hỏi dấu hiệu thứ ba.

– Dấu hiệu quan hệ nhân quả giữa hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép và hậu quả chết người.

Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép và hậu quả chết người là dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Người thi hành công vụ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người đã xảy ra khi hậu quả chết người và hành vi dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép mà họ đã thực hiện có quan hệ nhân quả với nhau.

Dấu hiệu mặt chủ quan của Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ:

– Lỗi được xác định trong cấu thành tội phạm là lỗi cố ý (dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép).

– Động cơ được xác định trong cấu thành tội phạm là đã có những hành vi xâm phạm tính mạng sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ vì lợi ích chung. Như vậy những hành vi xâm phạm tính mạng người khác do hống hách, coi thường tính mạng của người khác, hoặc do tư thù đều không thuộc phạm vi của tội này.

Khung hình phạt

Căn cứ theo điều 127 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về khung hình phạt của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ cụ thể như sau:

“Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.

e) Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Trong khi thi hành công vụ, nếu do vô ý mà gây chết người gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác thì tuỳ trường hợp mà định tội là vô ý làm chết người hay vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của người khác. Như vậy phải xem xét đầy đủ các dấu hiệu chủ yếu như đã nêu ở trên để phân biệt:

– Trường hợp có xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác, nhưng không phải là phạm tội.

– Trường hợp phạm tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác, nhưng không phải là phạm tội.

– Trường hợp phạm tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ.

– Trường hợp thông thường phạm tội giết người, vô ý làm chết người, cố ý gây thương tích hoặc vô ý gây thương tích.

Như vậy theo quy định trên thì tội phạm của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi giết người ở đây có thể là hành vi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp tước đoạt tính mạng của người khác .Làm chết người là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do sử dụng vũ khí ngoài những các trường hợp mà pháp luật cho phép. Và tội phạm trong trường hợp làm chết người trong khi thi hành công vụ sẽ có hai khung hình phạt cụ thể như sau:

– Khung 1: Đối với tội phạm rơi vào khoản 1 điều 127 thì khung hình phạt ở đây có thể bị phạt tù từ 05 đến 10 năm. Tùy theo từng trường hợp và các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà mức phạt tù có thể khác nhau. Ví dụ như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này có thể xét đến tình tiết người phạm tội từ trước đến nay có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu và học tập hoặc công tác,…

– Khung 2: Đối với trường hợp người phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ trong trường hợp này mà làm chết 2 người trở lên, làm chết người đối với người dưới 16 tuổi , hoặc phạm tội đối với người phụ nữ mà biết là họ có đang có thai thì mức phạt tù trong trường hợp này có thể lên tới từ 8 năm và cao nhất là 15 năm.

Ngoài ra người phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ còn có thể có thêm hình phạt bổ sung là bị cấm đảm nhiệt chức vụ, cấm hành nghề , làm công việc nhất định mà trước đó người phạm tội từng đảm nhiệm hoặc hành nghề thời gian phạt tù ở đây tùy theo từng mức độ thì có thể từ 01 năm đến 05 năm theo pháp luật quy định.

Trên đây là một số nội dung Điều 127 BLHS năm 2015, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139