Chiếm dụng tài sản

chiếm dụng tài sản
Chiếm dụng là chiếm hữu và sử dụng không hợp pháp tài sản. Bài viết phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến chiếm dụng tài sản hợp pháp và trái với quy định của pháp luật dưới góc nhìn pháp lý, cụ thể như sau:

Khái niệm chiếm dụng

Chiếm dụng là chiếm hữu và sử dụng không hợp pháp tài sản.

Thực chất, chiếm dụng chính là việc chiếm hữu bất hợp pháp tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác một cách không ngay tình với mục đích vụ lợi, nhằm khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Chiếm dụng là một trong những hành vi vi phạm quyền sở hữu. Theo quy định của pháp luật hiện hành, tuỳ theo mức độ tính chất của hành vi chiếm dụng, người thực hiện có thể phải chịu trách nhiệm dân sự, hành chính hay trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Ở Việt Nam, hành vi chiếm dụng tài sản với tư cách là quy định pháp luật dân sự để bảo vệ quyền của chủ sở hữu tài sản lần đầu tiên được quy định trong văn bản có giá trị pháp lí cao, đó là Bộ luật dân sự năm 1995. Việc thể chế hoá hành vi chiếm dụng một cách toàn diện trên các khía cạnh dân sự, hành chính và hình sự có ý nghĩa, tác dụng rất to lớn trong việc bảo hộ các quyền dân sự, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, chống và phòng ngừa tội phạm xâm phạm quyền sở hữu tài sản nói chung trong đời sống xã hội.

Khái niệm chiếm dụng tài sản

Khái niệm chiếm dụng vốn trái phép chưa có văn bản nào đưa ra quy định giải thích cho khái niệm trên. Căn cứ theo Khoản 5 Điều 8 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định cụ thể như sau:

“Huy động, chiếm dụng vốn trái phép; sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân và tiền ứng trước của bên mua, bên thuê, bên thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai không đúng mục đích theo cam kết.”

Tuy nhiên định nghĩa cụ thể chiếm dụng vốn trái phép là gì không được làm rõ.

Thực tế, có thể hiểu chiếm dụng vốn là việc một bên kinh doanh chiếm hữu, sử dụng tạm thời và không phải trả phí đối với khoản phải trả cho khách hàng, đối tác… Hoạt động chiếm dụng vốn được diễn ra khá phổ biến hiện nay như: doanh nghiệp nhận tiền ứng trước hay đặt cọc của khách hàng; nợ tiền hàng của đối tác. Việc chiếm dụng vốn bị coi là trái phép khi việc chiếm dụng vốn trái với các quy định của pháp luật.

Các loại chiếm dụng tài sản chủ yếu

Doanh nghiệp có thể chiếm dụng vốn từ nhiều nguồn khác nhau, tuy nhiên dưới đây là một số loại hình chiếm dụng vốn hay được các doanh nghiệp sử dụng nhất:

– Chiếm dụng của khách hàng

Chiếm dụng tài sản của khách hàng có thể được doanh nghiệp thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau. Doanh nghiệp có thể nhận tiền ứng trước hay tiền đặt cọc của khách hàng và số tiền này sẽ được ghi tương ứng khoản mục phải trả khách hàng trong báo cáo tài chính. Ngoài ra, gần đây ngày càng nhiều doanh nghiệp đã áp dụng các hình thức chiếm dụng vốn khác thông qua thẻ thành viên hoặc ví điện tử, đem lại nguồn vốn huy động lớn từ phía khách hàng.

– Chiếm dụng của nhà cung cấp

Chiếm dụng tài sản của nhà cung cấp cũng là một hình thực được nhiều doanh nghiệp sử dụng thông qua nợ tiền hàng của nhà cung cấp. Số tiền chiếm dụng này sẽ được ghi tương ứng khoản mục Phải trả người bán trong báo cáo tài chính. Việc chiếm dụng vốn này được nhiều nhà cung cấp chấp thuận, tuy nhiên bạn cũng nên cân nhắc về lượng vốn và tần suất chiếm dụng để tránh gây mất uy tín của doanh nghiệp.

– Chiếm dụng  của Nhà nước

Doanh nghiệp chiếm dụng tài sản của nhà nước thông qua việc chậm nộp các khoản thuế và các khoản lệ phí phải nộp khác. Tuy nhiên bạn cần thận trọng khi sử dụng hình thức chiếm dụng vốn này để tránh nhận phải những hình phạt từ phía chính quyền.

Cách giải quyết chiếm dụng tài sản

Trong giao dịch, nhiều trường hợp, hợp đồng chỉ là hình thức, thậm chí chỉ là hợp đồng miệng. Nên nội dung thường sơ sài. Chưa đúng nghĩa là hệ thống các Điều khoản Điều phối quy tắc ứng xử giữa các bên.

Chưa kể, doanh nghiệp còn thiếu hiểu biết pháp lý để ứng dụng trong soạn thảo hợp đồng. Ví dụ như cơ chế thưởng phạt, nguyên tắc xác định bồi thường thiệt hại. Khi có vi phạm, bên bị thiệt hại muốn phạt nặng cũng không có cơ sở để áp dụng. Trong khi nếu không bị phạt nặng thì không có ý nghĩa răn đe.

Cũng phải nhìn nhận, tình trạng lợi dụng hợp đồng còn có nguyên nhân khách quan từ môi trường kinh doanh, thể chế pháp luật. Doanh nghiệp “lừa” nhau nhưng không có chế tài trừng phạt rõ ràng, vai trò của các hiệp hội kinh doanh còn mờ nhạt. Ngoại trừ một vài hiệp hội có kết nối hội viên thực sự, phần lớn chưa thực sự là cầu nối hợp tác kinh doanh, chia sẻ thông tin giữa các hội viên. Thực tế, có nhiều vụ lừa đảo liên hoàn mà doanh nghiệp không biết để đề phòng.

Xử phạt hành chính đối với hành vi chiếm dụng tài sản

Xử phạt đối với hành vi chiếm dụng trái phép

“4. Phạt tiền từ 270.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản có một trong các hành vi sau đây:

a) Chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án không đúng thủ tục quy định;

b) Chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án mà không đảm bảo đầy đủ các yêu cầu hoặc các Điều kiện theo quy định;

c) Trường hợp chuyển nhượng khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất hoặc bị kê biên để đảm bảo thi hành án; bên nhận chuyển nhượng không phải là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản hoặc không đủ năng lực tài chính theo quy định thì xử phạt theo quy định tại Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;

d) Bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng khi chưa hoàn thành việc xây dựng theo tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt, chưa bảo đảm kết nối với hệ thống hạ tầng chung của khu vực, chưa hoàn thiện toàn bộ phần mặt ngoài (đối với trường hợp bàn giao nhà, công trình xây dựng thô) hoặc chưa hoàn thành nghiệm thu đưa công trình nhà ở, công trình hạ tầng xã hội vào sử dụng theo quy định;

đ) Huy động hoặc chiếm dụng vốn trái phép; sử dụng vốn huy động của tổ chức, cá nhân hoặc tiền ứng trước của bên mua, bên thuê, bên thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai không đúng mục đích cam kết.”

chiếm dụng tài sản
chiếm dụng tài sản

Phạt hình sự chiếm dụng tài sản

Bên cạnh đó, trong trường hợp các đối tượng chiếm dụng vốn trái phép có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản của người khác còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 175 BLHS hiện hành quy định:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có Điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

Như vậy, việc chiếm dụng vốn trái phép có thể bị xử phạt hành chính và hình sự. Tuy nhiên, dù bất kỳ hình thức phạt nào đi chăng nữa đều sẽ gây ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức bị chiếm dụng vốn trái phép. Bên cạnh đó những cá nhân, tổ chức có hành vi cũng sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, đồng thời ảnh hưởng đến danh dự, sự uy tín của bản thân cá nhân, doanh nghiệp.

Hiện nay, nhiều trường hợp người bị hại đến trình báo cơ quan Công an tố người phạm tội là lừa đảo, nhưng thực tế, người phạm tội chỉ có hành vi gian dối đối với người bị hại để giãn nợ hoặc có hành vi gian dối để vay được tiền, tài sản hoặc có hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản mà mình đã vay, mượn của người bị hại trước đó.

Vậy trường hợp nào thì coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt, còn trường hợp nào thì coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?

Cả hai tội này đều có dấu hiệu chung là người phạm tội phải có hành vi “chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, việc xác định thế nào là chiếm đoạt thì rất phức tạp. Hiện nay có tình trạng vay, mượn trong nhân dân hoặc có những hợp đồng vay của ngân hàng với số tiền rất lớn lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn tỉ đồng, nhưng mỗi nơi xử lý một cách khác nhau. Có nơi coi đó chỉ là quan hệ dân sự hoặc quan hệ kinh tế, có nơi truy tố về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, có nơi truy tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Về lý luận, chiếm đoạt tài sản là hành vi chuyển dịch, đoạt lấy, chiếm lấy tài sản của người khác trái pháp luật, để nắm giữ, quản lý, sử dụng, định đoạt. Hành vi cố ý chiếm giữ tài sản của người khác với mục đích chuyển quyền sở hữu về tài sản từ của người khác sang của mình.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cứ chiếm giữ tài sản của người khác, bất kể vì mục đích gì cũng là chiếm đoạt như: Lén lút lấy xe ô tô của cơ quan đi chơi rồi lại mang về trả; nói dối người khác là mượn xe đưa mẹ đi cấp cứu nhưng lại dùng xe để chở hàng lậu bị Công an bắt hoặc sau khi đánh nhau, một bên phải bỏ lại xe để chạy thoát thân, dẫn đến bên “thắng cuộc” phải mang xe về vì sợ để lại ở hiện trường thì người khác sẽ lấy mất. Quan niệm này cũng đang tồn tại ở một số cơ quan tiến hành tố tụng.

Nếu căn cứ vào Bộ luật Dân sự, thì quyền sở hữu tài sản bao gồm 03 quyền: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Chỉ người nào có đủ 03 quyền đó thì tài sản mới thực sự là của họ. Nếu một người chỉ có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản thì họ không phải là chủ sở hữu vì không có quyền định đoạt tài sản.

Nói dễ hiểu thì mới có hành vi “chiếm” mà chưa “đoạt” thì không phải là chiếm đoạt. Vì vậy, chiếm đoạt là biến của người khác thành của mình.

Chỉ khi nào xác định có chiếm đoạt thì lúc đó mới là tội phạm. Nếu đã xác định có chiếm đoạt tài sản thì việc phân biệt giữa hai tội phạm này chính là thủ đoạn gian dối có trước hay sau khi người phạm tội đã nhận được tài sản của người khác.

Nếu hành vi gian dối xảy ra trước khi vay, mượn rồi sau đó chiếm đoạt tài sản của người cho vay thì phải coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, còn nếu hành vi gian dối xảy ra sau khi người phạm tội đã có tài sản một cách hợp pháp thì chỉ coi là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cứ có hành vi gian dối trước khi có tài sản thì đều là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà phải xác định họ có mục đích chiếm đoạt tài sản hay không.

Ví dụ: A dùng giấy tờ nhà (bản photo có công chứng) để thế chấp cho B vay 500 triệu đồng. Sau đó B phát hiện trước đó A đã dùng giấy tờ nhà thế chấp cho một ngân hàng vay 1 tỉ đồng nên đã tố cáo hành vi của A với Cơ quan điều tra. Trường hợp này, người vay chỉ gian dối để vay được tiền chứ không phải để chiếm đoạt. Do đó, không thể định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với A.

Trên đây là một số nội dung về hành vi chiếm dụng tài sản, nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139