Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện là gì? một trong các tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu được quy định tại Chương XXV của Bộ luật hình sự 2015.
Hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định về thao tác, sử dụng vũ khí, khí tài, phương tiện quân sự, gây hậu quả nghiêm trọng. Để tìm hiểu rõ hơn về tội danh này, bài viết dưới đây của Luật Trần và Liên Danh xin cung cấp cho bạn đọc những thông tin, nội dụng cụ thể, cần thiết về tội vi phạm quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện.
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 411 Bộ luật hình sự 2015
Điều 411 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện như sau:
“Điều 411. Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện
1. Người nào không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.”
Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện
Khách thể của tội phạm – Điều 411 Bộ luật hình sự
Bảo đảm an toàn trong huấn luyện là một tiêu chí đặc biệt quan trọng để đánh giá việc hoàn thành nhiệm vụ của các đơn vị. Các văn bản hướng dẫn về phương pháp huấn luyện, quy tắc, nguyên tắc bảo đảm an toàn khi sử dụng lựu đạn, thuốc nổ, đạn thật trong bắn kiểm tra, diễn tập… đều đã được Bộ Tổng tham mưu biên soạn và hướng dẫn đầy đủ tới từng đơn vị trong quân đội nhân dân Việt Nam.
Chẳng hạn năm 2010, Bộ Tổng tham mưu đã ban hành Quy tắc bảo đảm an toàn trong huấn luyện, trong đó thể hiện khá đầy đủ các quy định về công tác bảo đảm an toàn khi huấn luyện, tập luyện đối với từng nội dung, tình huống cụ thể. Tháng 6-2016, Tổng Tham mưu trưởng tiếp tục ra Chỉ thị số 1145/CT-TM về việc bảo đảm an toàn trong huấn luyện, kiểm tra, diễn tập; tháng 11-2017, Bộ Tổng tham mưu quy định bổ sung một số nội dung về công tác bảo đảm an toàn thông qua Quy định số 2522/QyĐ-TM, trong đó nêu rõ các công việc, các khâu, các bước mà lãnh đạo chỉ huy đơn vị phải làm trước, trong và sau khi huấn luyện, kiểm tra, diễn tập có sử dụng đạn thật, thuốc nổ, lựu đạn…
Trong chiến đấu thực tế, việc chiến sĩ hy sinh là điều không ai mong muốn nhưng cũng là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn có thể giảm thiểu tối đa thiệt hại có thể xảy ra, giúp người sỹ quan tập trung hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện xâm phạm sự an toàn về người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự và về tài sản trong hoạt động chiến đấu và huấn luyện của bộ đội.
Như vậy, khách thể của tội phạm là sự an toàn về người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự và về tài sản trong hoạt động chiến đấu và huấn luyện của bộ đội.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 411 Bộ luật hình sự
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện gây hậu quả nghiêm trọng.
Chấp hành không nghiêm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện là chấp hành một cách lơ là, chậm trễ hoặc tuỳ tiện các quy định đó.
Quy định về an toàn là những quy định cụ thể về an toàn trong huấn luyện, trong thao tác, sử dụng vũ khí, khí tài, phương tiện kỹ thuật quân sự trong huấn luyện hoặc trong chiến đấu được quy định trong Điều lệnh Quân đội hoặc trong các văn bản khác đối với từng loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự, từng hình thức huấn luyện. Để xác định hành vi có cấu thành tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện cần phải xác định người đó đã vi phạm các quy định cụ thể nào về bảo đảm an toàn?
Hậu quả nghiêm trọng xảy ra là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Hậu quả này phải do hành vi vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện trực tiếp gây ra. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm có hậu quả nghiêm trọng xảy ra.
Trường hợp hậu quả nghiêm trọng không xảy ra, người thực hiện hành vi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này nhưng sẽ bị xử lý kĩ luật theo quy định tại Điều 26 Thông tư 16/2020/TT-BQP quy định về việc áp dụng các hình thức kỉ luật, trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền xử lý kỉ luật trong Bộ Quốc phòng:
“Điều 26. Vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn
Vi phạm các quy định phòng chống cháy nổ; bảo đảm an toàn trong huấn luyện, công tác, lao động, học tập, sinh hoạt và an toàn giao thông thì bị kỷ luật khiển trách hoặc cảnh cáo.
Nếu vi phạm một trong các trường hợp sau thì bị kỷ luật từ hạ bậc lương, giáng cấp bậc quân hàm đến giáng chức, cách chức:
a) Đã bị xử lý kỷ luật mà còn vi phạm;
b) Là người có chuyên môn nghiệp vụ hoặc thiếu trách nhiệm trong việc ngăn chặn hậu quả;
c) Để xảy ra mất an toàn về người, vũ khí, trang bị, phương tiện, tài sản.”
Chủ thể của tội phạm – Điều 411 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.
Họ chỉ có thể là:
“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân
Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.
Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.
Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”
Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 411 Bộ luật hình sự
Tội phạm được thực hiện do lỗi vô ý, có thể là vô ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
Theo Điều 11 Bộ luật Hình sự, vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
– Vô ý do quá tự tin : Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
– Vô ý do cẩu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Hình phạt đối với người phạm tội vi phạm các quy định về bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện
Điều 411 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 411 Bộ Luật hình sự: Người nào không chấp hành nghiêm chỉnh những quy định bảo đảm an toàn trong chiến đấu hoặc trong huấn luyện gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 411 Bộ Luật hình sự: Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 411 BLHS năm 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 411 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.