Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là gì? Mức phạt thế nào?

Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là gì Mức phạt thế nào

Hành vi trốn khỏi nơi giam, nơi giữ hoặc là bỏ trốn khi đang bị dẫn giải, xét xử chính là những hành vi mà gây nguy hiểm cho trật tự an toàn xã hội; an toàn của người dân. Bởi vì đó là là những hành vi được thực hiện bởi những người mà đang bị chấp hành hình phạt, là những người mà có thể họ chưa có sự ăn năn hối cải với những hành vi phạm tội trước mà họ đã gây ra. Vậy tội trốn khỏi nơi giam giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, xét xử xử phạt như thế nào?

Căn cứ pháp lý của tội trốn khỏi nơi giam, nơi giữ hoặc là bỏ trốn khi đang bị dẫn giải, xét xử

Điều 386 Bộ luật hình sự quy định tội vi phạm việc niêm phong, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản như sau:

1. Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải.

Dấu hiệu pháp lý của tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử

Khách thể của tội phạm – Điều 386 Bộ luật hình sự

Tội phạm xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.

Đối tượng tác động của tội phạm này mà người phạm tội nhằm vào là sự giám sát của các lực lượng bảo vệ, canh gác, dẫn giải. Người phạm tội có thể lợi dụng sự mất cảnh giác của lực lượng bảo vệ, canh gác, dẫn giải để bỏ trốn, nhưng cũng có thể người phạm tội dùng những thủ đoạn khác như: mua chuộc, khống chế hoặc dùng vũ lực đối với lực lượng bảo vệ, cánh gác, dẫn giải để thực hiện được mục đích của họ là bỏ trốn.

Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân.

Mặt khách quan của tội phạm – Điều 386 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi bỏ trốn của người đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù.

Người phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang dẫn giải, đang bị xét xử thực hiện hành vi “bỏ trốn” với nhiều thủ đoạn khác nhau, có trường hợp công khai nhưng đa số là lén lút đối với người canh giữ hoặc người dẫn giải. Bỏ trốn là thoát khỏi sự quản lý của người canh giữ hoặc người dẫn giải.

Người đang bị giam trong các trại giam (trại cải tạo) bỏ trốn là trốn tránh việc chấp hành hình phạt tù. Hành vi bỏ trốn này có trường hợp được tổ chức chặt chẽ với quy mô lớn, kèm theo hành vi bỏ trốn có thể người phạm tội còn thực hiện các hành vi phạm tội khác như: chống người thi hành công vụ; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ; giết người; huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản…Những người đang chấp hành hình phạt tù trong các trại giam thường lợi dụng vào việc mất cảnh giác của cán bộ quản giáo trong khi lao động cải tạo để bỏ trốn, nhất là những nơi hẻo lánh, xa khu dân cư. Đây là điều kiện tuận lợi nhất để người đang chấp hành hình phạt tù bỏ trốn.

Người đang bị tạm giam, tạm giữ bỏ trốn là trốn tránh khỏi bị truy cứu trách nhiệm hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng đối với họ. Hành vi bỏ trốn này, người phạm tội chủ yếu lợi dụng việc được ra khỏi buồng giam, buồng tạm giữ như: trong khi đang bị hỏi cung, người phạm tội xin phép cán bộ điều tra đi đại tiện, tiểu tiện rồi bỏ trốn; giả vờ ốm để được đưa đi bệnh viện rồi bỏ trốn; lợi dụng được nằm điều trị tại bệnh viện rồi bỏ trốn; lợi dụng khi thực nghiệm điều tra để bỏ trốn.

Người đang bị dẫn giải bỏ trốn là trốn việc chấp hành hình phạt tù hoặc hình phạt tử hình, hoặc trốn sự truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi bỏ trốn này thường được thực hiện bằng thủ đoạn lợi dụng sự mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm của lực lượng dẫn giải hoặc người phạm tội dùng thủ đoạn mua chuộc, khống chế, dùng vũ lực đối với lực lượng dẫn giải để tẩu thoát.

Người đang bị xét xử bỏ trốn là lợi dụng lúc Toà án đang xét xử (xét xử sơ thẩm hoặc phúc tẩm) để bỏ trốn. Hành vi bỏ trốn tại phiên toà thường là của bị cáo bị giam hoặc bị tạm giam nhưng cũng có trường hợp những người bị giam hoặc bị tạm giam có mặt tại phiên toà chỉ là người làm chứng hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án khác. Tại phiên toà do có nhiều người tam dự, bị cáo lại không bị khoá tay, nhất là lúc Hội đồng xét xử nghỉ giải lao hoặc trong thời gian nghị án, nên đã lợi dụng sự thiếu cảnh giác của lực lượng canh giữ hoặc mua chuộc người canh giữ để bỏ trốn.

Hậu quả của tội phạm này là người phạm tội thành công việc bỏ trốn. Tuy nhiên hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Dù người phạm tội có bỏ trốn thành công hay không thì tội phạm đã hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan xảy ra.

Chủ thể của tội phạm – Điều 386 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ những người đang bị giam, đang bị giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

Người đang bị giữ là người đã có quyết định tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc người bị bắt theo lệnh truy nã, bị bắt do phạm tội quả tang hoặc bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp. Những người bị giữ theo quyết định hành chính, nếu bỏ trốn thì không phải là chủ thể của tội phạm này, kể cả trường hợp sau khi bị bắt lại họ bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, vì thời điểm họ bỏ trốn họ chưa bị áp dụng biện pháp tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Người đang bị dẫn giải là người đang bị giam, giữ nhưng đang bị dẫn giải từ nơi này đến nới khác (từ trại giam, tại tạm giam, nhà tạm giữ đến trại giam, tại tạm giam, nhà tạm giữ khác hoặc dẫn giải bị can, bị cáo đến phòng xử án để Toà án xét xử…); người bị bắt theo lệnh truy nã, bị bắt do phạm tội quả tang, bị bắt khẩn cấp đang bị dẫn giải về nhà tạm giữ, trại tạm giam.

Người đang bị xét xử là bị cáo bị giam hoặc bị tạm giam nhưng đang bị Toà án xét xử tại phòng xử án đã lợi dụng sự thiếu cảnh giác của lực lượng canh giữ đã bỏ trốn khỏi phòng xử án. Đối với bị cáo không bị tạm giam hoặc bị giam (tại ngoại) đã đến phiên toà nhưng trong quá trình xét xử họ vắng mặt không có lý do thì không phải là chủ thể của tội phạm này.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là gì Mức phạt thế nào
tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là gì Mức phạt thế nào

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 386 Bộ luật hình sự

Người phạm tội bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang dẫn giải, đang bị xét xử thực hiện hành vi phạm tội của mình là do lỗi cố ý trực tiếp. Tức là biết rõ hành vi của mình là hành vi trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra.

Mục đích chung của người phạm tội là trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật đối với hành vi phạm tội do mình thực hiện; người phạm tội có thể vì nhiều động cơ khác nhau như: bỏ trốn để về trả thù người đã tố cáo mình, bỏ trốn về thăm bố, mẹ, vợ, chồng hoặc con; bỏ trốn để tiếp tục phạm tội khác; bỏ trốn để gặp lại đồng bọn giải quyết việc ăn chia không sòng phẳng; bỏ trốn để đòi nợ; bỏ trốn để thanh lý xong các hợp đồng kinh tế.v.v…

Mức hình phạt đối với người phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị áp giải, đang bị xét xử

Luật sư hình sự tư vấn heo quy định tại Điều 386 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 386 Bộ Luật hình sự: Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 386 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

Có tổ chức;

Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 386 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 386 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139