Tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác là hành vi của một người không có chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác nhưng lại mạo danh là mình có chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác nào đó để thực hiện hành vi trái pháp luật. Vậy Tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác là gì? Mức phạt thế nào?
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 399 Bộ luật hình sự năm 2015
Điều 339 Bộ luật hình sự quy định tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác như sau:
“Điều 339. Tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác
Người nào giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Dấu hiệu pháp lý của tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác
Giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác là hành vi của một người không có chức vụ, cấp bậc nhưng đã mạo danh là mình có chức vụ, cấp bậc, vị trí đó để thực hiện hành vi trái pháp luật.
Khách thể của tội phạm – Điều 399 Bộ luật hình sự
Tội phạm này xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước đối với các chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác trong cơ quan, tổ chức; đơn vị lực lượng vũ trang.
Đối tượng tác động của tội phạm này là chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác mà Nhà nước quy định cho cán bộ, nhân viên trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang.
Chức vụ của một người là do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
Cấp bậc là trật tự chức vụ trong quân đội, chính quyền, đoàn thể. Trật tự này được quy định tuỳ theo từng ngành, từng cơ quan, tổ chức. Ví dụ: Trật tự chức vụ trong ngành Toà án của tỉnh là Chánh án, Phó chánh án, Chánh toà, Phó chánh toà, Trưởng phòng, Phó trưởng phòng…; Trong ngành kiểm sát tỉnh là Viện trưởng, Phó viện trưởng, Trưởng phòng, Phó trưởng phòng…; Trong ngành công an tỉnh là Giám đốc, Phó giám đốc, Trưởng phòng, Phó trưởng phòng, Đội trưởng, Đội phó…
Vị trí công tác là nhiệm vụ, công việc của một cá nhân cụ thể được bổ nhiệm, giao phó trong cơ quan, tổ chức, lực lượng vũ trang,…
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 399 Bộ luật hình sự
Hành vi khách quan của tội giả mạo vị trí công tác gồm 02 hành vi là hành vi giả mạo và hành vi thực hiện hành vi trái pháp luật.
Hành vi giả mạo ở đây là giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác. Giả mạo (theo từ điển tiếng Việt) là tạo ra một cái, một điều không có thật để đánh lừa người khác. Giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác là hành vi mao danh của người không có chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác để đánh lừa người khác.
Người phạm tội thực hiện hành vi giả mạo với nhiều thủ đoạn khác nhau như: Dùng giấy tờ giả; mặc trang phục giống với trang phục của người mà người phạm tội muốn giả mạo; đeo cấp hàm, cấp hiệu giống với cấp hàm, cấp hiệu mà người phạm tội muốn giả mạo.
Cùng với hành vi giả mạo, người phạm tội nhất định phải thực hiện một hành vi trái pháp luật, có thể là để thực hiện một tội phạm khác hoặc có thể chỉ thực hiện hành vi vi phạm hành chính,…
Trong trường hợp người giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác nhằm thực hiện một tội phạm khác quy định trong Bộ luật Hình sự thì người đó có thể bị truy cứu cả về hai loại tội phạm là tội giả mạo cấp bậc, chức vụ, vị trí công tác và tội phạm mà người phạm tội hướng tới. Ví dụ, anh A giả mạo công an để khám xét nhà anh B vì nghi ngờ anh A ngoại tình với vợ mình. Trường hợp này, ngoài việc bị truy cứu về tội giả mạo chức vụ thì A còn bị truy cứu về tội xâm phạm chỗ ở của người khác theo Điều 158 Bộ luật Hình sự.
Hậu quả của hành vi giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác không phải là tình tiết định tội (dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm). Do vậy, tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm hành vi khách quan xảy ra.
Chủ thể của tội phạm – Điều 399 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt. Bất kì ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác. Họ có thể là người Việt Nam, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 399 Bộ luật hình sự
Người giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác thực hiện hành vi trái pháp luật là do cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội biết hành vi của mình là giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác; biết hành vi của mình là hành vi trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện không cần biết hậu quả của hành vi đó như thế nào. Hoặc dù không mòn muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả tiếp diễn.
Hình phạt đối với người phạm tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác
Điều 339 Bộ luật Hình sự quy định duy nhất 01 Khung hình phạt đối với người phạm tội: phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác thực hiện hành vi trái pháp luật nhưng không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 399 BLHS năm 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 399 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.