Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là gì? Mức phạt thế nào?

Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là gì? Mức phạt thế nào.

Đăng ký hộ tịch được xem là cơ sở pháp lý để Nhà nước có thể bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và thực hiện quản lý dân cư đồng thời phục vụ cho các hoạt động quản lý trong các lĩnh vực quan trọng khác như: an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, giáo dục, y tế, dân số-kế hoạch hóa gia đình. Chính vì vậy mà việc làm trái các quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện các quyền công dân và dẫn đến bị xử lý hình sự. Vậy Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là gì? Mức phạt thế nào?

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 336 Bộ luật hình sự năm 2015

Điều 336 Bộ luật hình sự quy định tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật như sau:

“Điều 336. Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật

Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 02 người trở lên;

b) Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật.

Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Dấu hiệu pháp lý của tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật

Làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi tập trung huấn luyện.

Khách thể của tội phạm – Điều 336 Bộ luật hình sự

Hộ tịch là những sự kiện xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư.

Tội phạm xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước về đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch. Như vậy, khách thể của tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là chính sách quản lý nhà nước về hộ tịch.

Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là gì? Mức phạt thế nào.
Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là gì? Mức phạt thế nào?

Mặt khách quan của tội phạm Điều 336 Bộ luật hình sự

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm.

– Đăng kí hộ tịch trái luật là hành vi của người có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch như ghi các thông tin, kiểm tra các thông tin và thực hiện đăng nhập dữ liệu mà sai với thông tin đã được cung cấp.

Đăng kí hộ tịch nhằm tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Đăng ký hộ tịch gồm việc xác nhận vào Sổ hộ tịch và ghi vào Sổ hộ tịch.

– Cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật là cấp giấy tờ về hộ tịch không đúng các quy định của pháp luật, như không đúng hành vi của người có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật.

Mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền theo quy định của Luật này.

Cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống. Trường hợp cá nhân không đăng ký tại nơi thường trú thì Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan đại diện nơi đã đăng ký hộ tịch cho cá nhân có trách nhiệm thông báo việc đăng ký hộ tịch đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cá nhân đó thường trú.

Người thực hiện những hành vi bị nghiêm cấm để đăng kí, cấp giấy tờ trái pháp luật về hộ tịch chỉ bị truy cứu trách nhiệm khi đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm. Bị coi là đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm nếu trước đó đã bị người có thẩm quyền xử lý kỷ luật về hành vi đăng ký hộ tịch trái pháp luật nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý kỷ luật mà còn thực hiện hành vi đăng ký hộ tịch trái pháp luật.

Chủ thể của tội phạm Điều 336 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có nhiệm vụ, quyền hạn mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

Người có nhiệm vụ quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Tuy nhiên, đối với tội phạm này, người có chức vụ, quyền hạn phải là người có trách nhiệm trong việc thực hiện đăng kí, cấp giấy tờ về hộ tịch. Chỉ những người có liên quan đến những quy định về việc xác nhận hoặc ghi vào sổ hộ tịch, người có liên quan về việc cấp giấy tờ về hộ tịch mới là chủ thể của tội này.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 336 Bộ luật hình sự

Chủ thể thực hiện tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ được hậu quả của việc đăng kí hoặc cấp giấy tờ về hộ tịch và mong muốn hậu quả đó xảy ra. Hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.

Hình phạt đối với người phạm tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật

Điều 336 Bộ luật Hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 336 Bộ Luật hình sự:  Người nào có nhiệm vụ, quyền hạn mà thực hiện việc đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 336 Bộ Luật hình sự:  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

  • Đăng ký, cấp giấy tờ về hộ tịch trái pháp luật cho 02 người trở lên;
  • Giấy tờ về hộ tịch đã được cấp, đăng ký trái pháp luật được sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 336 Bộ Luật hình sự:  Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 336 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 336 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139