Tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật là hành vi cố ý kết luận sai của người giám định, cố ý dịch sai của người phiên dịch hoặc là hành vi cố ý khai sai, cung cấp nhữn tài liệu sai sự thật của người làm chứng. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết luận của cơ quan có thẩm quyền trong giai đoạn tố tụng. Vậy Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối là gì? Mức phạt thế nào?
Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 382 Bộ luật hình sự 2015
Điều 382 Bộ luật hình sự quy định tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối như sau:
“Điều 382. Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa nào mà kết luận, dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội .
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Dấu hiệu pháp lý của tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
Khách thể của tội phạm – Điều 382 Bộ luật hình sự
Tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân. Không ít trường hợp do khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật mà dẫn đến những hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng như: từ có tội thành không có tội hoặc ngược lại, từ chủ sở hữu căn nhà thành người đi ở nhờ,…
Đối tượng tác động của tội phạm này tuỳ thuộc vào chủ thể của tội phạm mà đối tượng tác động có thể là quyết định giám định tư pháp, là lời dịch, bản dịch, là lời khai của người làm chứng, các biên bản ghi lời khai của người làm chứng hoặc những tài liệu mà người giám định, người phiên dịch, người làm chứng cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng.
Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 382 Bộ luật hình sự
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi kết luận, dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật.
Căn cứ vào chủ thể mà người phạm tội có thể thực hiện một hoặc một số hành vi khách quan như sau:
Đối với người làm chứng đã có lời khai không đúng với các tình tiết của vụ án (chứng gian) hoặc cung cấp những tài liệu sai sự thật về vụ án như; bịa đặt ra những tình tiết không có hoặc phủ nhận những tình tiết có thật của vụ án như: nhìn thấy nhưng khai là không nhìn thấy hoặc ngược lại; có mặt ở nơi xảy ra vụ án nhưng khai là không có mặt hoặc ngược lại; xác nhận gian dối tình trạng ngoại phạm của người phạm tội; cung cấp các tài liệu, đồ vật, tin tức nhằm làm sai lệch các tình tiết của vụ án,…
Đối với người giám định đã kết luận giám định gian dối không đúng với tình tiết khách quan của vụ án như: chất đem gửi đến là chát ma tuý nhưng người giám định đã kết luận là không phải là chất ma tuý, nên Cơ quan điều tra không khởi tố được bị can đối với người vận chuyển chất ma tuý; tỷ lệ thương tật của người bị hại dưới 11% nhưng người giám định lại kết luận người bị hại có tỷ lệ thương tật là 25%; công trình xây dựng không đúng thiết kế nhưng người giám định lại kết luận là đúng thiết kế; người phạm tội không mắc bệnh tâm thần nhưng người giám định lại kết luận là mắc bệnh tâm thần; người phạm tội đã đủ 18 tuổi nhưng người giám định lại kết luận mới 16 tuổi; chứ ký trong giấy biên nhận đúng là của đương sự nhưng lại kết luận là không phải,…
Đối với người phiên dịch đã phiên dịch không đúng với tiếng nói, chữ viết hoặc dấu hiệu của người tham gia tố tụng mà cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu phiên dịch; xuyên tạc nội dung tài liệu mà người phiên dịch có trách nhiệm phải dịch theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng; xuyên tạc nội dụng câu hỏi, câu trả lời mà người phiên dịch có trách nhiệm phải dịch trong quá trình lấy lời khai của người tiến hành tố tụng đối với người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, đối với đương sự trong vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Người phiên dịch có thể dịch trực tiếp bằng lời nói, nhưng cũng có thể dịch bằng chữ viết.
Hậu quả của hành vi khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tội phạm hoàn thành kể từ khi có hành vi khách quan xảy ra.
Chủ thể của tội phạm – Điều 382 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội phạm này cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ có người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
Người giám định là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực cần giám định, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu, người tham gia tố tụng yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.
Người định giá tài sản là người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực giá, được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng yêu cầu định giá tài sản theo quy định của pháp luật.
Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội cản trở việc thi hành án là người từ đủ 16 tuổi trở lên.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 382 Bộ luật hình sự
Người phạm tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối thực hiện hành vi phạm tội của mình là do cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Tức là biết rõ hành vi của mình là hành vi trái pháp luật nhằm cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối, mong muốn cho hậu quả hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.
Hình phạt đối với người phạm tội cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khai báo gian dối
Điều 382 Bộ luật Hình sự quy định 04 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 382 Bộ Luật hình sự: Người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa nào mà kết luận, dịch, khai gian dối hoặc cung cấp những tài liệu mà mình biết rõ là sai sự thật, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 382 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
- Có tổ chức;
- Dẫn đến việc giải quyết vụ án, vụ việc bị sai lệch.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 382 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
- Phạm tội 02 lần trở lên;
- Dẫn đến việc kết án oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội .
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 382 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 382 BLHS năm 2015
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 382 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.