Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ quy định tại Điều 418 BLHS năm 2015

Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ quy định tại Điều 418 BLHS năm 2015

Truyền thống dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” vẫn luôn là một nét đẹp được gìn giữ và phát huy qua bao thế hệ. Bác của chúng ta đã từng nói: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người đã có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta bất kể trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh liệt sĩ, tử sĩ, những người đã hy sinh tính mệnh hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Đối với tử sĩ, nhà nước tôn trọng, bảo vệ và dành sự quan tâm đến những di vật mà họ để lại trước khi chết. Chính vì vậy mà hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ không chỉ vi phạm đạo đức đối với người đã mất mà còn là hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Vậy tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ quy định tại Điều 418 BLHS năm 2015 là gì và được quy định như thế nào trong Bộ luật hình sự? Bài viết sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến vấn đề này.

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 418 Bộ luật hình sự 2015

Điều 418 BLHS năm 2015 quy định tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ như sau:

“Điều 418. Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ

1. Người nào chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 02 tử sỹ trở lên.”

Các dấu hiệu pháp lý tại Điều 418 Bộ luật hình sự năm 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 418 Bộ luật hình sự

Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ không chỉ xâm phạm kỉ luật chiến trường mà còn thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với người đồng đội của mình đã hy sinh.

Theo từ điển Tiếng Việt, tử sĩ là quân nhân đã chết khi đang tại ngũ.

Theo Điều 4 Luật di sản văn hóa năm 2001, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.”

Di vật của tử sý được hiểu là hiện vật của tử sĩ trước khi mất và được để lại cho người thân, gia đình sau khi mất. Di vật có thể là vật có giá trị lớn nhưng cũng có thể chỉ là vật mang ý nghĩa tinh thần, có giá trị kỉ niệm đối với thân nhân của tử sỹ.

Như vậy, khách thể của tội phạm là kỉ luật chiến trường, tài sản của tử sỹ.

Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ quy định tại Điều 418 BLHS năm 2015
Tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ quy định tại Điều 418 BLHS năm 2015

Mặt khách quan của tội phạm – Điều 418 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ.

Chiếm đoạt di vật của tử sĩ là hành vi lợi dụng hoàn cảnh chiến đấu, sự hy sinh của đồng đội để chiếm đoạt làm của mình những vật của tử sĩ tuy không có giá trị về tài sản nhưng lại có giá trị về tinh thần đối với gia đình tử sĩ.

Hủy hoạt di vật của tử sỹ là hành vi làm hư hại, làm cho di vật mà tử sỹ để lại bị mất một phần hoặc toàn bộ giá trị vốn có của di vật.

Hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sĩ.

Chủ thể của tội phạm – Điều 418 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Họ chỉ có thể là:

“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 418 Bộ luật hình sự

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Mức hình phạt tại Điều 418 BLHS năm 2015

Điều 418 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 418 Bộ Luật hình sự: Người nào chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của tử sỹ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 418 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

  • Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
  • Chiếm đoạt hoặc hủy hoại di vật của 02 tử sỹ trở lên.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 418 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 418 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với  Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139