Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật ra đời dưới thời vua Lê Thánh Tông có niên hiệu là Hồng Đức (1470-1497), đây là Bộ luật chính thức của nhà nước Đại Việt thời Lê sơ và hiện còn được lưu giữ đầy đủ. Bộ luật Hồng Đức là tôn gọi thông dụng của Bộ Quốc triều hình luật. Bộ luật Hồng Đức có thể coi là một bộ luật tổng hợp bao gồm nhiều các quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: Lĩnh vực hình sự; lĩnh vực dân sự; luật tố tụng; luật hôn nhân và gia đình; luật hành chính;…. Luật Trần và Liên Danh sẽ giới thiệu nội dung bộ luật hồng đức trong bài viết dưới đây.
Bố cục của bộ luật hồng đức
Quốc triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển (5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngoài ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật còn có các đồ biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi, trượng, gông, dây sắt v.v).
Bố trí cụ thể như sau:
Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v)
Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ
Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.
Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v
Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối.
Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này.
Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.
Bộ luật Hồng Đức là một thành tựu hết sức quan trọng trong lịch sử lập pháp của Việt Nam so với các triều đại trước đó cũng như nhiều các quốc gia trên thế giới thời kỳ đó.
Bộ luật Hồng Đức được tìm thấy trên hai bài vị ván khắc và một bản chép tay với tiêu đề là Lê triều hình sự. Các tài liệu tìm thấy này đều không có ghi thông tin tên tác giả niên đại, không có lời tựa,…
Bộ luật này được ban bố lần đầu tiên trong khoảng những năm 1470 – 1497 dưới thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu là Hồng Đức.
Tuy nhiên qua quá trình nghiên cứu lịch sử một số nhà nghiên cứu cho rằng Bộ luật này được biên soạn và ban hành từ thời vua Lê Thái Tổ (1428) và không ngừng được hoàn chỉnh và trong quá trình hoàn chỉnh các điều khoản của Bộ luật thì có sự đóng góp to lớn của vua Lê Thánh Tông.
nội dung bộ luật hồng đức
Các quy định dân sự – nội dung bộ luật hồng đức
Trong bộ luật Hồng Đức – văn bản pháp luật có ý nghĩa lớn đối với nền lập pháp Việt Nam, các quan hệ dân sự được đề cập tới nhiều nhất là các lĩnh vực như: quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng và thừa kế ruộng đất.
Sở hữu và hợp đồng
QTHL đã phản ánh hai chế độ sở hữu ruộng đất trong thời kỳ phong kiến là: sở hữu nhà nước (ruộng công) và sở hữu tư nhân (ruộng tư).
Trong bộ luật Hồng Đức, do đã có chế độ lộc điền-công điền tương đối toàn diện về vấn đề ruộng đất công nên trong bộ luật này quyền sở hữu nhà nước về ruộng đất chỉ được thể hiện thành các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng ruộng đất công như:
– không được bán ruộng đất công (điều 342),
– không được chiếm ruộng đất công quá hạn mức (điều 343),
– không được nhận bậy ruộng đất công đã giao cho người khác (điều 344),
– cấm làm sai quy định phân cấp ruộng đất công (điều 347),
– không để bỏ hoang ruộng đất công (điều 350),
– cấm biến ruộng đất công thành tư (điều 353),
– không được ẩn lậu để trốn thuế (điều 345) v.v
Thừa kế
Trong lĩnh vực thừa kế, quan điểm của các nhà làm luật thời Lê khá gần gũi với các quan điểm hiện đại về thừa kế.
Cụ thể: Khi cha mẹ còn sống, không phát sinh các quan hệ về thừa kế nhằm bảo vệ và duy trì sự trường tồn của gia đình, dòng họ. Thứ hai là các quan hệ thừa kế theo di chúc (các điều 354, 388) và thừa kế không di chúc (thừa kế theo luật) với các điều 374-377, 380, 388.
Điều đáng chú ý là bộ luật Hồng Đức cho người con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người con trai là một điểm tiến bộ không thể thấy ở các bộ luật phong kiến khác. Đây chính là điểm nổi bật nhất của luật pháp triều Lê.
Các quy định hình sự – nội dung bộ luật hồng đức
Các nguyên tắc chủ đạo
Hình luật là nội dung trọng yếu và có tính chất chủ đạo, bao trùm toàn bộ nội dung của bộ luật. Các nguyên tắc hình sự chủ yếu của nó là:
Vô luật bất thành hình (điều 642, 683, 685, 708, 722): trong đó quy định chỉ khép tội khi trong bộ luật có quy định, không thêm bớt tội danh, áp dụng đúng hình phạt đã quy định và nó là tương tự như trong các bộ luật hình sự hiện đại.
Chiếu cố (điều 1, 3-5, 8, 10, 16, 17, 680): trong đó quy định các chiếu cố đối với địa vị xã hội, tuổi tác (trẻ em và người già cả), tàn tật, phụ nữ v.v
Chuộc tội bằng tiền (điều 6, 16, 21, 22, 24): đối với các tội danh như trượng, biếm, đồ, khao đinh, tang thất phụ, lưu, tử, thích chữ. Tuy nhiên các tội thập ác (mười tội cực kỳ nguy hiểm cho chính quyền) và tội đánh roi (có tính chất răn đe, giáo dục) không cho chuộc.
Trách nhiệm hình sự (điều 16, 35, 38, 411, 412): trong đó đề cập tới quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và việc chịu trách nhiệm hình sự thay cho người khác.
Miễn, giảm trách nhiệm hình sự (điều 18, 19, 450, 499, 553): trong đó quy định về miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp như tự vệ chính đáng, tình trạng khẩn cấp, tình trạng bất khả kháng, thi hành mệnh lệnh, tự thú (trừ thập ác, giết người).
Thưởng người tố giác, trừng phạt người che giấu (điều 25, 39, 411, 504)
Tội phạm
Phân loại theo hình phạt (ngũ hình và các hình phạt khác)
Theo sự vô ý hay cố ý phạm tội
Theo âm mưu phạm tội và hành vi phạm tội
Tính chất đồng phạm
Các nhóm tội cụ thể
Thập ác: Là 10 trọng tội nguy hiểm nhất như:
Các tội liên quan đến vương quyền: mưu phản, mưu đại nghịch (điều 2, 411), mưu bạn (phản bội tổ quốc-điều 412), đại bất kính (430, 431).
Các tội liên quan đến quan hệ hôn nhân-gia đình: ác nghịch (điều 416), bất hiếu (nhiều điều, chẳng hạn điều 475), bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
Tội liên quan đến tiêu chí đạo đức hàng đầu của Nho giáo: bất đạo (420 và 421).
Các nhóm tội phạm khác: bao gồm các tội liên quan đến sự an toàn thân thể của vua, nghi lễ cung đình, xâm phạm trật tự công cộng, quản lý hành chính, thể thức nghi lễ triều đình, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, các tội phạm quân sự, xâm phạm chế độ sở hữu ruộng đất, xâm phạm chế độ hôn nhân-gia đình, các tội tình dục, các tội xâm phạm chế độ tư pháp v.v
Những quy định, nội dung bộ luật hồng đức còn được duy trì tới nay
Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là bộ Quốc triều hình luật) được coi là bộ luật nổi bật nhất, có vai trò rất đặc biệt trong lịch sử lập pháp của nền phong kiến Việt Nam. Cho đến nay mặc dù đã trải qua hơn 500 năm lịch sử.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật của Bộ luật Hồng Đức vẫn còn nguyên giá trị thời sự cho nền lập pháp của nước ta hiện nay.
Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn và có những điểm tiếp cận gần với kĩ thuật lập pháp hiện đại. Đặc biệt là những quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ. Cái mà các bộ luật khác thời phong kiến thường không chú trọng đến với thân phận của người phụ nữ.
Đối với phụ nữ quyền lợi của người phụ nữ được đề cập chủ yếu trong hai chương là “Hộ hôn” và “Điền sản”
Cụ thể, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp thời phong kiến nhà nước quy định con gái có quyền thừa kế ngang bằng với người con trai trong trường hợp người con trai trưởng mất hoặc chết. Bên cạnh đó, bộ luật cũng phân định về nguồn gốc tài sản của vợ chồng bao gồm: tài sản riêng của mỗi người và tài sản chung của cả hai vợ chồng.
Việc phân định này góp phần xác định việc phân chia thừa kế cho các con khi cha mẹ đã chết hoặc chia tài sản cho Bên còn sống nếu một trong hai vợ chồng chết trước.
Có thể nói đây là một điểm mới tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức mà đến ngày hôm nay tại Điều 28, 38 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã kế thừa về việc phân chia tài sản chung và tài sản riêng của vợ và chồng.
Bên cạnh vấn đề về tài sản, thừa kế thì sự tiến bộ, nhân văn trong bộ luật hồng đức còn thể hiện qua địa vị ngang hàng của người vợ trong hôn nhân
Cụ thể như người vợ có quyền xin ly hôn trong một số trường hợp, ví dụ như: “chồng xa cách vợ không lui tới trong suốt 5 thắng thì vợ được phép trình quan sở tại, quan xã làm chứng thì chồng đó mất vợ.
Hay nếu đã có con thì gia hạn 1 năm. Những người công sai đi xa không áp dụng luật này. Nếu đã thôi vợ mà trở lại cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm” theo quy định tại điều 308 Bộ luật Hồng Đức. Điểm này đã cho thấy sự tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức trong việc đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội hiện tại.
Ngoài ra ở Điều 167 – Hồng Đức thiện chính thư đã có giấy từ xác thực một điểm tiến bộ minh bạch của Bộ luật Hồng Đức.
Bên cạnh việc ưng thuận của cha mẹ hoặc các trưởng bối thì sự ưng thuận của hai bên trai giá cũng được pháp luật chú trọng và hiện nay điều này cũng được ghi nhận tại Luật hôn nhân gia đình 2014.
Qua đó có thể thấy những điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là một bước tiến khá căn bản trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thểđược gía trị thời sự và cách lập pháp tiến tiến của nền lập pháp nước ta để lại kế thừa cho Luật hôn nhân gia đình hiện đại.
Trên đây là một số nội dung bộ luật hồng đức, nếu có thắc mắc gì về nội dung này, quý bạn đọc có thể liên hệ ngay với công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được tư vấn và hỗ trợ.