Điều 376 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn

Điều 376 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn

Thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn được hiểu là hành vi của người trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải người bị giam, giữ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về quản lý, canh gác, dẫn giải để cho người bị giam giữ trôn thoát. Vậy Điều 376 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn hiện nay được quy định chi tiết như thế nào?

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Điều 376 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn như sau:

Điều 376. Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn

1. Người nào được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về quản lý, canh gác, áp giải để người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng trốn thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm vụ án bị tạm đình chỉ;

b) Người bỏ trốn trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;

c) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Làm vụ án bị đình chỉ;

b) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng;

c) Để từ 02 người đến 05 người bỏ trốn;

d) Để người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng bỏ trốn;

đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

b) Để 06 người trở lên bỏ trốn;

c) Để người thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng bỏ trốn.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Các dấu hiệu pháp lý của Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao của người trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù để người đó trốn gây hậu quả nghiêm trọng.

Tội phạm xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ giam, giữ, dẫn giải người bị giam, giữ; để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của hoạt động tố tụng như: phải tạm đình chỉ điều tra, phải hoãn phiên toà và xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản, các tội xâm phạm an ninh quốc gia mà trốn thoát thì còn gây tác hại không thể lường hết được.

Đối tượng tác động của tội phạm này không phải là người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mà là trách nhiệm của người để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn. Trách nhiệm này được xác lập do chức vụ, quyền hạn mà có. Do không làm hoặc làm không đầy đủ trách nhiệm được giao nên người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mới trốn được.

Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng; các quy định của Nhà nước về chế độ giam, giữ, dẫn giải người bị giam, giữ và trật tự an toàn xã hội.

Mặt khách quan của tội phạm – Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về quản lý, canh gác, áp giải để người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng trốn thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Làm vụ án bị tạm đình chỉ;

b) Người bỏ trốn trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;

c) Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

Hành vi đó có thể biểu hiện như do quá ỷ lại vào các điều kiện khách quan về nơi giam giữ, phương tiện dẫn giải, chế độ canh gác, bảo vệ… mà thiếu sự sâu sát kiểm tra, đôn đốc, thiếu cảnh giác hoặc tin vào lời hứa hẹn của người bị giam, giữ để người đó lợi dụng lòng tin của người trực tiếp canh gác, dẫn giải mà bỏ trốn hay không chấp hành đầy đủ các quy định về chế độ canh gác, dẫn giải.

Đối tượng bỏ trốn là người đang bị giam, giữ: Người bị giam, giữ bao gồm: những người đang bị tạm giam theo quyết định tạm giam của cơ quan có thẩm quyền; những người đang chấp hành án phạt tù giam; những người bị bắt để tạm giam trên đường dẫn giải; những người bị tạm giữ.

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi thiếu trách nhiệm và việc người bị giam bỏ trốn: Hành vi thiếu trách nhiệm với hậu quả nghiêm trọng xảy ra phải có quan hệ nhân quả; người bị giam, giữ trốn gây hậu quả nghiêm trọng nhưng không phải do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra mà do những nguyên nhân khách quan khác thì không kết án người có hành vi thiếu trách nhiệm về tội phạm này.

Hậu quả của tội phạm là việc người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn. Hậu quả người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội thiếu trách nhiệm dẫn đến người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù bỏ trốn.

Chủ thể của tội phạm – Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người trực tiếp quản lý, canh gác, dẫn giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mới có thể là chủ thể của tội phạm này.

Phạm vi áp dụng đối với tội phạm này tương đối hẹp, chỉ giới hạn trong lĩnh vực quản lý, canh gác, dẫn giải người bị giam, giữ. Họ là những cán bộ, chiến sĩ Công an, Quân đội công tác trong các Trại tạm giam, Nhà tạm giữ, Trại cải tạo. Ngoài ra, tuy không nhiều nhưng vẫn có thể xảy ra, đó là: đối với những người có trách nhiệm dẫn giải người bị bắt giữ theo lệnh bắt khẩn cấp, có lệnh truy nã từ nơi bắt về nơi giam giữ.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý. Thông thường, tội phạm được thực hiện dưới dạng vô ý do cẩu thả, tức là trường hợp do cẩu thả mà không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Đó là những trường hợp thiếu sự kiểm tra, đôn đốc hoặc mất cảnh giác trong việc canh gác, dẫn giải, không chấp hành đầy đủ các quy định về canh gác, dẫn giải như: dẫn giải can phạm mà không khoá tay, bỏ phiên gác… Cũng có một số trường hợp tội phạm được thực hiện dưới dạng vô ý vì quá tự tin, tức là trường hợp người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Đó là những trường hợp do tin tưởng, ỷ lại vào các điều kiện khách quan như: cơ sở nhà trại, lực lượng và chế độ canh gác bảo vệ, phương tiện dẫn giải… mà không làm đầy đủ những việc thuộc trách nhiệm của mình vì tin rằng can phạm sẽ không dám bỏ trốn hoặc không thể bỏ trốn được.

Điều 376 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn
Điều 376 Bộ luật hình sự quy định tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn

Mức hình phạt tại Điều 376 Bộ luật hình sự 2015

Điều 375 Bộ luật Hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 375 Bộ Luật hình sự: Người nào được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, canh gác, áp giải người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định về quản lý, canh gác, áp giải để người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng trốn thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  • vụ án bị tạm đình chỉ;
  • Người bỏ trốn trả thù người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng;
  • Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 375 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

  • Làm vụ án bị đình chỉ;
  • Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng;
  • Để từ 02 người đến 05 người bỏ trốn;
  • Để người thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng bỏ trốn;
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 375 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

  • Người bỏ trốn tiếp tục thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
  • Để 06 người trở lên bỏ trốn;
  • Để người thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng bỏ trốn.

Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 375 Bộ Luật hình sự: Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 375 Bộ Luật hình sự 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 376 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139