Hiện nay, ở Việt Nam, hệ công cơ quan nhà nước rất lớn, trong các cơ quan đó là những cán bộ, công chức,… thực hiện vai trò, nhiệm vụ mà mình được giao.
Tuy nhiên, với đặc thù như vậy mà loại hình tội phạm về tham nhũng nói chung tồn tại rất nhiều trong các cơ quan nhà nước, ở bất kì cấp nào, bất kì địa phương nào.
Trong nhóm tội phạm đó, thì điều 355 bộ luật hình sự 2015 đã quy định về Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là gì?
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm của người có chức vụ, quyền hạn cố ý vượt ra khỏi phạm vi chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác,
Xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ và hoạt động đúng đắn của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội.
Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về loại tội phạm này như sau:
“Điều 355. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:
a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 năm đến 13 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
đ) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng;
e) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 13 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;
c) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động;
d) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Khách thể của tội phạm – Điều 355 Bộ luật hình sự
Khách thể trực tiếp của tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, để có thể gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, người phạm tội phải tác động đến tài sản là đối tượng của quan hệ sở hữu.
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 355 Bộ luật hình sự
Hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài vừa có tính chất là hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn, có tính chất chiếm đoạt tài sản, đó chính là hành vi chiếm đoạt tài sản và lạm dụng chức vụ, quyền hạn là thủ đoạn phạm tội.
Lạm dụng là dùng, sử dụng quá mức hoặc vượt quá giới hạn quy định, hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn là hành vi vượt ra khỏi phạm vi, giới hạn chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi phạm tội.
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm có cấu thành vật chất, người có chức vụ, quyền hạn là chủ thể của tội phạm phải chiếm đoạt tài sản của người khác thì mới cấu thành tội này. Nếu không có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mà chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của người khác thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm khác.
Tại Bộ luật hình sự quy định về hậu quả xảy ra đó là “chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng” hoặc trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chủ thể của tội phạm – Điều 355 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là người có năng lực trách nhiệm hình sự; đạt đến độ tuổi luật định và là người có chức vụ, quyền hạn.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì những người từ đủ 16 tuổi trở lên, xét về tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
Tại Điều 352 thì “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ.
Bản chất pháp lý của người có chức vụ quyền hạn là họ được giao thực hiện một công vụ hoặc một nhiệm vụ nhất định và từ vị trí công việc, nhiệm vụ được giao họ có quyền hạn liên quan trực tiếp đến công việc của mình.
Trong trường hợp đồng phạm về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản thì ngoài người thực hành cần thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn, những người đồng phạm khác như tổ chức, người xúi giục, người giúp sức không cần thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 355 Bộ luật hình sự
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý trực tiếp tức họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra
Động cơ phạm tội trong trường hợp là động cơ vụ lợi, người phạm tội mong muốn thông qua hành vi phạm tội thu được những lợi ích vật chất nhất định cho mình hoặc cho người khác mà mình quan tâm.
Mục đích phạm tội của mặt chủ quan của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội thông qua hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác.
Cấu thành tăng nặng tội phạm
Phạm tội có tổ chức: Theo quy định của Điều 17 Bộ luật Hình sự thì phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. (Khoản 2).
Như vậy, phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Đây là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia gồm người tổ chức (là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm), người thực hành (là người trực tiếp thực hiện tội phạm), người xúi giục (là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm), người giúp sức (là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm).
Dùng thủ đoạn xảo quyệt tức người phạm tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản có những mánh khóe, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị chiếm đoạt tài sản khó có thể nhận biết được mình bị chiếm đoạt tài sản.
Những mánh khóe được coi là thủ đoạn xảo quyệt khi nó làm cho người bị chiếm đoạt không biết hoặc biết cũng không thể làm gì được khi tài sản của mình bị chiếm đoạt. Ví dụ như ban hành quyết định giả, …
Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn: đây là trường hợp chiếm đoạt những khoản tiền vì mục đích an sinh xã hội, là khoản tiền thuộc công quỹ nhà nước, hành vi chiếm đoạt gây thiệt hại nghiêm trọng tới đời sống của nhân dân cũng như hoạt động quản lý của Nhà nước.
Hình phạt của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 355 Bộ Luật hình sự: Phạt tù từ 01 năm đến 06 năm với trường hợp “chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng” hoặc trường hợp chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương XXIII chưa được xóa án tích (Khoản 1)
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 355 Bộ Luật hình sự: Phạt tù từ 06 năm đến 13 năm với trường hợp phạm tội có tổ chức; dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; phạm tội 02 lần trở lên; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đồng đến dưới 3.000.000.000 đồng; hoặc chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 355 Bộ Luật hình sự: Phạt tù từ 13 năm đến 20 năm với trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng; gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng; dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 355 Bộ Luật hình sự: Phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân trong trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên; hoặc ây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.
Mức hình phạt tại khoản 5 Điều 355 Bộ Luật hình sự: Hình phạt bổ sung đó là cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 355 Bộ luật hình sự
Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:
Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.
Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.
Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
Như vậy, trên đây là toàn bộ thông tin và nội dung tư vấn pháp luật của Luật Trần và Liên Danh liên quan đến điều 355 bộ luật hình sự 2015. Mọi thắc mắc xin liên hệ qua Hotline: Công ty luật uy tín để được giải đáp nhanh chóng, chu đáo và miễn phí!