Phương tiện giao thông đường không luôn phải đảm bảo an toàn kỹ thuật nhằm đảm bảo trong quá trình hoạt động, vận chuyển hàng hóa, hành khách. Phương tiện giao thông vừa mang nhiều lợi ích nhưng ngược lại tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe và tài sản, đặc biệt là phương tiện giao thông đường không hoạt động trong môi trường khác biệt, khả năng nguy hiểm càng cao so với các loại phương tiện khác.
Phương tiện giao thông đường không được đưa vào hoạt động phải được kiểm định, kiểm tra một cách chặt chẽ và chính xác đảm bảo phương tiện trong quá trình hoạt động không xảy ra sự cố kỹ thuật, gây ra tai nạn và thiệt hại nghiêm trọng. Người có chức vụ liên quan đến việc đưa phương tiện đường không vào sử dụng phải đảm bảo phương tiện đạt an toàn. Vậy trường hợp đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn thì sẽ bị xử lý như thế nào, quy định cụ thể về hành vi vi phạm và hình phạt đối với tội danh này ra sao? quy định về điều 279 BLHS năm 2015 về tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn.
Điều 279 BLHS năm 2015 về tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn là gì?
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn là hành vi ho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn. Được thể hiện như cho phép lái xe không đảm bảo thoát hiểm, động cơ… vào sử dụng dẫn đến gây hậu quả nghiêm trọng do người có năng lực hình sự thực hiện với lỗi vô ý.
Quy định chi tiết về tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn Điều 279 BLHS năm 2015
Theo quy định tại Điều 279 BLHS năm 2015 về tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn như sau:
1. Người nào có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Các dấu hiệu pháp lý của Điều 279 BLHS năm 2015 về tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng khách quan và chủ quan được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Cấu thành tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn bao gồm các dấu hiệu sau:
Mặt khách quan của tội phạm – Điều 279 Bộ luật hình sự
Hành vi khách quan phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi nguy hiểm này được thể hiện bằng việc thực hiện hay không thực hiện hành động thuộc các trường hợp cấm của luật. Hành vi khách quan của tội này thể hiện qua việc cho phép đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn. Được thể hiện như cho phép lái xe không đảm bảo thoát hiểm, động cơ… vào sử dụng dẫn đến gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả của hành vi này là bắt buộc, hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn phải gây thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Dấu hiệu khách quan cơ bản tiếp theo là về phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn về kỹ thuật phải được xác định rõ ràng, tức là việc không đảm bảo an toàn kỹ thuật có thể dễ dàng nhận biết ngay hoặc nhìn thấy ngay mà không cần phải qua kiểm tra kỹ thuật. Đây là dấu hiệu khách quan buộc, cũng là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Khách thể của tội phạm – Điều 279 Bộ luật hình sự
Hành vi phạm tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn xâm phạm đến các quy định đảm bảo an toàn giao thông đường bộ. Đồng thời xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác.
Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 279 Bộ luật hình sự
Người thực hiện hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn là do vô ý. Người thực hiện hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn nhận thức được hành vi của mình sẽ gây nguy hiểm nhưng vẫn thực hiện do nghĩ hậu quả sẽ không xảy ra.
Chủ thể của tội phạm – Điều 279 Bộ luật hình sự
Chủ thể của tội này mang tính đặt biệt, chỉ những người chịu trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật về phương tiện giao thông đường không mới là chủ thể của tội phạm này.
Quy định về mức phạt tại Điều 279 BLHS năm 2015 về tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn
Mức hình phạt của tội phạm này được chia thành năm khung, cụ thể như sau:
Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 279 Bộ luật hình sự:
Người nào có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
- Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 279 Bộ luật hình sự:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
- Làm chết 02 người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 279 Bộ luật hình sự:
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
- Làm chết 03 người trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
- Gây thiệt hại về tài sản từ 1.500.000.000 đồng trở lên.
Mức hình phạt tại khoản 5 Điều 279 Bộ luật hình sự:
Người có trách nhiệm trực tiếp về việc điều động hoặc về tình trạng kỹ thuật của các phương tiện giao thông đường không mà cho đưa vào sử dụng các phương tiện rõ ràng không bảo đảm an toàn kỹ thuật, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Mức hình phạt tại khoản 6 Điều 279 Bộ luật hình sự:
Ngoài việc bị áp dụng một trong số các hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn Điều 279 BLHS năm 2015
Bên cạnh định khung hình phạt của từng tội danh, khi xét xử vụ án Hình sự, Thẩm phán sẽ xem xét tới những căn cứ làm giảm hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật. Đó dựa trên chính sách khoan hồng và nhân đạo của nhà nước và Luật pháp.
Theo quy định của Bộ Luật Hình sự, các tình tiết giảm nhẹ luật định được quy định tại điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) :
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
Phạm tội do lạc hậu;
Người phạm tội là phụ nữ có thai;
Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
Người phạm tội tự thú;
Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công với cách mạng.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy, khi làm việc với cơ quan chức năng, người phạm tội phải thành khẩn khai báo và hợp tác để được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước. Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Việc góp mặt của luật sư khi tham gia vụ án với tư cách người bào chữa không chỉ xác định chính xác tội danh mà còn khai thác tối đa các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo.
Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 279 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.