Điều 127 BLHS năm 2015 quy định tội danh, trong đó công vụ là công việc chung của Nhà nước, của cộng đồng vì lợi ích chung của toàn xã hội. Việc thi hành công vụ thường do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện.
Trong khi thực công vụ, có trường hợp làm chết người, thông thường đây là điều mà người thi hành công vụ không mong muốn xảy ra. Tuy nhiên, trong khi thi hành công vụ đã giết người nên pháp luật hình sự đưa ra quy định riêng đối với người làm chết người trong khi thi hành công vụ.
CĂN CỨ PHÁP LÝ
Điều 127 BLHS năm 2015 quy định Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ như sau:
“Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA TỘI LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
Khách thể của tội phạm tại Điều 127 BLHS năm 2015
Làm chết người trong khi thi hành công vụ là hành vi của người trong quá trình thực hiện công vụ của mình đã làm cho người khác bị chết do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Tội phạm trực tiếp xâm phạm quyền sống của con người. Như vậy, khách thể của tội phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là quyền sống, quyền được Nhà nước bảo hộ về tính mạng, thân thể.
Mặt khách quan của tội phạm tại Điều 127 BLHS năm 2015
Điều 127 BLHS năm 2015 quy định hành vi dùng vũ lực xâm phạm tính mạng của người khác trong khi thi hành công vụ trước hết là hành vi sử dụng vũ khí ngoài các trường hợp pháp luật cho phép.
Theo Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017 quy định các trường hợp người thi hành công vụ được phép sử dụng vũ khí như sau:
“a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó;
b) Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ;
c) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;
d) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác;
đ) Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ;
e) Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.”
Như vậy, chỉ những trường hợp trên, người thi hành công vụ mới được sử dụng vũ khí, vật liệu và công cụ hỗ trợ. Trước khi sử dụng vũ khí, người thực hiện công vụ phải phát tín hiệu cảnh báo cho những đối tượng kia biết bằng lời nói, hành động hoặc bắn chỉ thiên. Ngoài những trường hợp luật định nêu trên, người thực hiện công vụ sử dụng vũ khí đều trái luật.
Bên cạnh hành vi sử dụng vũ khí, còn có những người không được giao vũ khí và trong khi thi hành công vụ họ cũng không sử dụng vũ khí mà chỉ sử dụng những công cụ cầm tay như gậy gộc, hoặc tay không. Nhưng họ được giao nhiệm vụ hoặc tự nguyện tham gia cùng với người làm nhiệm vụ gây chết người thì được coi là phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ.
Người thi hành công vụ sử dụng vũ khí hoặc vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép thì mới là hành vi phạm tội. Nếu họ đã thực hiện đầy đủ những quy định của pháp luật về việc sử dụng vũ khí trong khi làm nhiệm vụ mà vẫn gây chết người thì không phải là phạm tội.
Tội xâm phạm tính mạng của người khác trong khi thi hành công vụ là tội phạm có cấu thành vật chất nên phải xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Hậu quả cái chết của nạn nhân phải xuất phát từ hành vi sử dụng vũ lực trái pháp luật của người đang thi hành công vụ. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội này, nếu hậu quả chết người không xảy ra, thì sử dụng vũ lực không bị kết tội theo Điều 127 BLHS năm 2015.
Chủ thể của tội phạm tại Điều 127 BLHS năm 2015
Chủ thể của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 16 tuổi.
Họ là những người đang thi hành công vụ nói chung, người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao.
Ngoài ra, những công dân được huy động làm nhiệm vụ như: tuần tra, canh gác, bảo vệ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền hoặc công dân, vì lợi ích chung của xã hội mà đã sử dụng một loại công cụ nào đó để giúp sức người thi hành công vụ ngăn chặn hoặc đuổi bắt người phạm tội, do đó xâm phạm tính mạng của người khác thì cũng được coi là người thi hành công vụ.
Mặt chủ quan của tội phạm tại Điều 127 BLHS năm 2015
Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý gián tiếp. Động cơ phạm tội là hành động vì lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Người phạm tội sử dụng vũ lực trong khi thi hành công vụ hoàn toàn nhận thức được mức độ nguy hiểm của hành vi, nhìn thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, họ không hề mong muốn hậu quả ấy đến nhưng vẫn có ý thức bỏ mặc để hậu quả tự xảy ra.
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI PHẠM TỘI LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
Điều 127 BLHS năm 2015 quy định 03 khung hình phạt đối với người phạm tội làm chết người trong khi thi hành công vụ như sau:
– Khung hình phạt phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng với người trong khi thi hành công vụ mà làm chết 01 người do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, đây là loại tội phạm rất nghiêm trọng.
– Khung hình phạt phạt tù từ 08 năm đến 15 năm áp dụng đối với người sử dụng vũ lực ngoài trường hợp luật định mà làm chết 02 người trở lên hoặc, làm chết người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai.
Căn cứ theo Điều 9, người phạm tội bị xét xử theo khung hình phạt này cũng thuộc tội phạm rất nghiêm trọng. Người dưới 16 tuổi và phụ nữ mà biết là có thai là những đối tượng cần được bảo vệ, khả năng tự vệ yếu, dó đó việc sử dụng vũ lực đối với người dưới 16 tuổi và phụ nữ mà biết là có thai là hành vi vô nhân đạo, không được sử dụng vũ lực với họ.
– Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trên đây là một số nội dung Điều 127 BLHS năm 2015 , nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.