Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin, bản chất và hiện tượng có mối liên hệ mật thiết với nhau nhưng cũng tồn tại những mâu thuẫn bên trong. Để hiểu rõ được vấn đề này, trước tiên chúng ta cần hiểu bản chất là gì, mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng như thế nào. Cùng Luật Trần và Liên Danh tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé.
Bản chất là gì?
Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những đặc tính bên trong của sự vật, những mối liên hệ tự nhiên ổn định trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng là cặp phạm trù quan trọng trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lenin, là một trong những nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ định mối quan hệ biện chứng. Bản chất là phạm trù chỉ những thứ cơ bảm, những mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng là phạm trù miêu tả những biểu hiện bên ngoài của bản chất.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin quan điểm duy tâm không thừa nhận hoặc chưa hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng, quan điểm của họ cho rằng bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống không do con người đặt ra, tồn tại trong suy nghĩ chủ quan của con người, họ chỉ thừa nhận bản chất là những thực thể tinh thần.
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng của Triết học Mac-Lenin đưa ra quan điểm cả bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, đây là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định, những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan xen, chằng chịt, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định, những mối liên hệ tất nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật. Vì vậy bản chất chính là sự tồn tại khách quan gắn liền với sự vật còn hiện tượng là biểu hiện bên ngoài của bản chất, là khách quan không phải do cảm giác chủ quan của con người quyết định.
Bản chất và hiện tượng có tính thống nhất
Bản chất luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở một mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng, đồng thời không có hiện tượng nào không biểu hiện bản chất. Bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau, mỗi bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng, bản chất như thế nào tương ứng với hiện tượng như vậy, mỗi bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau, khi bản chất thay đổi thì hiện tượng đó cũng thay đổi theo và khi bản chất biến mất thì hiện tượng sẽ chấn dứt tồn tại.
Bản chất và hiện tượng có tính mâu thuẫn
+ Bản chất và hiện tượng bao hàm sự mâu thuẫn
+ Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật nhưng hiện tượng lại phản ánh những cái riêng, cái cá biệt.
+ Bản chất biểu hiện cái bên trong, còn hiện tượng biểu hiện cái bên ngoài, bản chất không chỉ biểu lộ rõ ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau.
+ Hiện tượng chỉ biểu hiện một phần của bản chất. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra nhiều hiên tượng khác nhau tuỳ vào sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh, hiện tượng phong phú hơn bản chất, tuy nhiên bản chất sâu sắc hơn hiện tượng, bản chất mang tính ổn định còn hiện tượng là thường xuyên biến đổi.
Ví dụ về bản chất và hiện tượng
Ví dụ về bản chất:
– Bản chất của con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội trong cuộc sống. Nếu một người không có mối quan hệ xã hội nào thì đó chưa thực sự là một con người theo đúng nghĩa.
– Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Quy luật này chi phối toàn bộ quá trình phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Đồng thời quy luật này là bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản chất cho thấy chủ nghĩa tư bản luôn có mục tiêu sản xuất giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt.
– Một trong những đặc tính bản chất của ánh sáng là tính sóng, hiện tượng biểu hiện của nó là sự giao thoa bước sóng.
Ví dụ về hiện tượng:
– Màu da của con người có rất nhiều loại: đen, vàng, trắng….đây là những biểu hiện bên ngoài.
– Khi đưa một cái đũa vào cốc nước, ta thấy chiếc đũa như bị gãy nhưng thực tế không phải vậy, do hiện tượng khúc xạ ánh sáng mà ta thấy hiện tượng chiếc đũa bị gãy khi để vào cốc nước.
Ý nghĩa của phương pháp luận
Muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế vì bản chất không tồn tại thuần tuý mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng. Bản chất của sự vật sẽ không được biểu hiện đầy đủ trong một hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật.
Trong hoạt động nhận thức, để có thể hiểu được đầy đủ về một sự vật nào đó, ta không nên chỉ đánh giá qua hiện tượng thể hiện bên ngoài mà phải đi vào tìm hiểu bản chất của sự vật đó.
Vai trò của nhận thức và khoa học đó là phải chỉ rõ được bản chất của sự vật, trong thực tiễn cần dựa vào bản chất chứ không được dựa vào hiện tượng để đánh giá.
Bởi vì bản chất tồn tại khách quan ngay trong bản thân sự vật nên ta chỉ có thể tìm thấy bản chất ở trong sự vật ấy chứ không phải nhìn thấy ở bên ngoài nó, khi đưa ra kết luận về bản chất của sự vật, cần tránh những ý kiến chủ quan.
Bản chất không tồn tại thuần tuý cũng không bộc lộ ra bên ngoài thông qua các hiện tượng tương ứng nên ta chỉ có thể thấy cái bản chất trên cở sở nghiên cứu đánh giá từ các hiện tượng.
Trong quá trình nhận thức bản chất của sự vật ta cần xem xét các hiện tượng khác nhau ở nhiều góc độ khác nhau.
Hiện tượng khi nào cũng biểu hiện bản chất dưới dạng sai lệch, không đúng với bản chất thực tế.
Trong một hoàn cảnh và khoảng thời gian nhất định, ta không thể xem hết được mọi hiện tượng biểu hiện bản chất của sự vật, vì vậy ta phải ưu tiên xem xét các hiện tượng nổi bật, điển hình trong hoàn cảnh cụ thể.
Tuy nhiên việc xem xét như vậy chưa đủ cơ sở để đánh giá hết bản chất thực sự của sự vật mà mới chỉ phản ánh một mức độ nhất định, khi đi sâu vào nắm bắt các cấp độ tiếp theo, ta sẽ cảm nhận được sâu sắc hơn bản chất, vì vậy khi đưa ra kết luận về bản chất, ta cần cẩn thận. Vì bản chất là cái tất nhiên, là sự tương đối ổn định bên trong sự vật, quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng là sự không ổn định, không quyết định sự vận động và phát triển của sự vật. Do đó nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến tới nhận thức được bản chất của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng hay xuyên tạc bản chất của sự vật.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có mối quan hệ biện chứng như sau:
Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống:
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có nhận thức được hay không.
Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chúng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy, nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau:
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo. Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát triển của những hiện tượng ấy.
Bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản là phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên bản chất.
– Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính vì thế, hiện tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước, ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định, nó luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó, bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi, trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.
Trên đây là một số kiến thức liên quan tới bản chất là gì? và mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng Luật Trần và Liên Danh muốn gửi tới bạn đọc. Hi vọng đây là nguồn tham khảo hữu ích giành cho các bạn.