Giá vốn hàng bán là gì? Công thức tính như thế nào? Hạch toán giá vốn có vai trò quan trọng như thế nào trong kinh doanh?… Bài viết sau đây, Luật Trần và Liên Danh sẽ chia sẻ cho bạn khái niệm giá vốn hàng bán là gì và các phương pháp tính giá vốn hàng bán cũng như những cách khắc phục khi giá vốn bị sai.
Khái niệm giá vốn hàng bán là gì?
Điều đầu tiên nếu muốn quản lý dòng tiền hiệu quả thì cần phải hiểu khái niệm giá vốn hàng bán là gì?
Giá vốn hàng bán là giá trị vốn của hàng bán đã tiêu thụ trong một khoảng thời gian cụ thể (trong một kỳ). Giá vốn hàng bán bao gồm tất cả các chi phí liên quan đến quá trình tạo ra sản phẩm.
Theo số liệu của AC Nielsen, Việt Nam hiện có khoảng hơn 1,3 triệu cửa hàng bán lẻ, đáng chú ý là hơn 90% chủ cửa hàng tại các tỉnh và 70% cửa hàng tại các thành phố lớn vẫn đang quản lý cửa hàng bằng cách ghi chép thủ công.
Tất nhiên đây là dạng mô hình kinh doanh thành viên hộ gia đình, không thuê nhân viên bên ngoài. Nhưng một khi quy mô phát triển bắt buộc họ cần cải cách tư duy quản lý của mình, hoặc mãi mãi dừng lại ở quy mô đó, không thể lớn lên được.
Mới đây nhất là vụ GNN Express, vị CEO công ty chuyển phát nhanh này đã phải thừa nhận, do năng lực quản lý dòng tiền yếu kém, không cân đối được thu chi dẫn tới việc lạm dụng và sử dụng tiền thu hộ (COD) của khách hàng vào các hoạt động của công ty (lên tới 5,5 tỷ đồng). Công ty phá sản vì mất khả năng chi trả.
Trong các khoản đầu tư, nhìn nhận dễ nhất là chi phí nhập hàng, khoản ngân sách chiếm tỷ trọng lớn trong khâu kinh doanh. Vì vậy, cần hiểu được giá vốn hàng bán là gì, sự hình thành của giá vốn, cách nó hoạt động như thế nào và cách tính ra sao. Khi đó bạn sẽ biết việc làm ăn ở cửa hàng thực sự đang tăng trưởng ra sao.
Vậy giá vốn hàng bán gồm những gì? Chi phí liên quan đến giá vốn hàng bán bao gồm tất cả các chi phí để tạo ra một sản phẩm như chi phí mua nguyên vật liệu, chi phí sản xuất hàng hóa, chi phí nhân công, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí vận chuyển,… Đối với từng loại hình công ty khác nhau thì sẽ có những cách định nghĩa về giá vốn khác nhau:
Với các công ty thương mại (nghĩa là nhập sản phẩm sẵn có về bán), thì giá vốn được hiểu là tổng tất cả các chi phí từ lúc mua hàng đến lúc hàng hóa có mặt tại kho của công ty, bao gồm: giá nhập hàng hóa từ các nhà cung cấp, chi phí vận chuyển hàng hóa về kho, thuế, bảo hiểm hàng hóa,…
Với các công ty sản xuất (các công ty trực tiếp sản xuất ra sản phẩm), thì các chi phí cấu thành nên giá vốn sẽ nhiều hơn các công ty thương mại do có thêm chi phí nguyên liệu đầu vào để sản xuất sản phẩm.
Ngoài ra, giá vốn của mỗi công ty khác nhau còn thay đổi phụ thuộc vào các quy định khác nhau theo hợp đồng với nhà cung cấp.
Giá vốn sinh ra để làm gì?
Thị trường luôn biến động, không phải lúc nào nhà bán hàng cũng nhập được hàng với giá ổn định. Có thể nay bạn nhập lô 30 áo phông nam cổ tròn – trắng với giá 50K/chiếc.
Hàng hot bán dễ quá, 2 ngày sau bạn nhập thêm lô 50 cái. Nhưng hàng khan hiếm, nhà cung cấp nâng giá lên 60K/chiếc. Thôi chấp nhận đau thương vậy, dù sao hàng đang hot bán vẫn có lời mà. Giá nhập cứ biến thiên như vậy cho các lần nhập tiếp theo.
Vậy bài toán ở đây là làm sao để biết được số tiền bạn đã bỏ ra nhập hàng (giá vốn) khi mà số lượng hàng nhập và giá vốn (chi phí nhập) ở mỗi thời điểm khác nhau? Mặt khác cửa hàng đang bán vài trăm, thậm chí hàng nghìn mã sản phẩm nên việc tính toán trên sổ sách là điều vô nghĩa?
Tầm quan trọng của giá vốn hàng bán đến hoạt động kinh doanh
Giá vốn được xem là một trong những yếu tố tương đối quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của cửa hàng. Đây là cơ sở để chủ kinh doanh có thể định giá sản phẩm cũng như phản ánh giá trị hàng hóa tại thời điểm nhập hàng vào kho.
Với lượng hàng hóa và loại sản phẩm đa dạng, hạch toán chính xác giá vốn sẽ giúp bạn có thể quản lý chi phí của hàng một cách chính xác và cụ thể nhất.
Cùng với đó, giá vốn hàng bán còn được hiểu như một chỉ tiêu quan trọng trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, là cơ sở để tính lợi nhuận gộp giúp phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của cửa hàng một cách chính xác nhất.
Cách tính giá vốn hàng bán
Trên thế giới hiện nay đang tồn tại 3 cách tính giá vốn hàng bán như sau:
Công thức tính FIFO (Nhập trước xuất trước)
Cách tính này ý là nhập trước thì xuất trước. Công thức tính giá vốn FIFO chỉ phù hợp với các mặt hàng có hạn sử dụng, hoặc các cửa hàng điện máy, máy tính, điện thoại hay sử dụng. Trong mô hình bán lẻ tạp hóa rất hiếm dùng, vì việc tính toán dữ liệu rắc rối và phức tạp.
Khi giá tăng, kết quả theo phương pháp FIFO, giá vốn hàng bán thấp hơn. Điều này trong điều kiện lạm phát, làm tăng thu nhập ròng và kết quả là mức đóng thuế TNDN cao hơn.
Công thức tính LIFO (Nhập sau xuất trước)
Cách tính LIFO (nhập sau xuất trước) ngày nay rất ít khi được sử dụng, giờ chỉ còn 2 nước là Mỹ và Nhật chấp nhận cách tính này. Tuy nhiên, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) tại Mỹ họ lại phủ nhận vì cho rằng công thức tính như trên thiếu sự chính xác.
Một nhược điểm rất rõ ràng trong cách tính giá vốn hàng bán LIFO là định giá hàng tồn kho không đáng tin cậy, trong trường hợp hàng tồn kho là sản phẩm cũ và có giá trị lỗi thời với giá hiện hành.
Công thức tính Bình quân gia quyền trong giá vốn hàng bán
Phương pháp tính giá vốn hàng bán này gọi là Bình quân gia quyền, hiện đang được Phần mềm quản lý bán hàng Sapo sử dụng để tính toán giá trị hàng tồn kho. Nhiều nơi khác, công thức tính này còn có tên gọi Bình quân Di Động, hay Bình Quân Liên Hoàn… Và đây cũng là phương pháp tính giá vốn phổ biến nhất mà các phần mềm tân tiến ngày nay đang áp dụng.
Theo phương pháp tính này, mỗi lần nhập hàng thì giá vốn sẽ được tính lại theo công thức:
MAC = ( A + B ) / C
Với:
MAC: Giá vốn của sản phẩm tính theo bình quân tức thời
A: Giá trị kho hiện tại trước nhập = Tồn kho trước nhập * giá MAC trước nhập
B: Giá trị kho nhập mới = Tồn nhập mới * giá nhập kho đã phân bổ chi phí
C: Tổng tồn = Tồn trước nhập + tồn sau nhập
– Giá trị của giá vốn hàng bán phụ thuộc vào phương pháp tính giá vốn hàng tồn kho được một công ty áp dụng. Có ba phương pháp mà một công ty có thể sử dụng khi ghi lại mức tồn kho đã bán trong kỳ: Nhập trước, Xuất trước (FIFO), Nhập sau, Xuất trước (LIFO) và Phương pháp chi phí trung bình. Phương pháp Nhận dạng Đặc biệt được sử dụng cho các mặt hàng có giá vé cao hoặc duy nhất.
– FIFO: Hàng hóa được mua hoặc sản xuất sớm nhất được bán trước. Vì giá có xu hướng tăng lên theo thời gian, một công ty sử dụng phương pháp FIFO sẽ bán các sản phẩm rẻ nhất của mình trước tiên, điều này dẫn đến giá vốn hàng bán thấp hơn giá vốn hàng bán được ghi nhận theo LIFO. Do đó, thu nhập ròng sử dụng phương pháp FIFO tăng lên theo thời gian.
– Hàng hóa mới nhất được thêm vào kho được bán trước. Trong thời kỳ giá cả tăng cao, hàng hóa có chi phí cao hơn được bán trước, dẫn đến giá vốn hàng bán cao hơn. Theo thời gian, thu nhập ròng có xu hướng giảm dần.
– Phương pháp chi phí trung bình: Giá trung bình của tất cả hàng hóa trong kho, bất kể ngày mua, được sử dụng để định giá hàng hóa đã bán. Việc tính giá thành sản phẩm trung bình trong một khoảng thời gian có tác dụng làm trơn tru giúp giá vốn hàng bán không bị ảnh hưởng lớn bởi chi phí cực lớn của một hoặc nhiều vụ mua lại hoặc mua bán.
– Phương pháp xác định đặc biệt sử dụng chi phí cụ thể của từng đơn vị hàng hóa (còn gọi là hàng tồn kho hoặc hàng hóa) để tính toán hàng tồn kho cuối kỳ và giá vốn hàng bán cho mỗi kỳ. Trong phương pháp này, một doanh nghiệp biết chính xác mặt hàng nào đã được bán và chi phí chính xác. Hơn nữa, phương pháp này thường được sử dụng trong các ngành bán các mặt hàng độc đáo như ô tô, bất động sản và đồ trang sức quý hiếm.
– Loại trừ khỏi Khấu trừ giá vốn hàng bán: Nhiều công ty dịch vụ không có bất kỳ giá vốn hàng bán nào cả. Giá vốn hàng bán không được đề cập chi tiết trong các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP), nhưng giá vốn hàng bán được định nghĩa là chỉ giá vốn của các mặt hàng tồn kho được bán trong một thời kỳ nhất định. Không chỉ các công ty dịch vụ không có hàng để bán, mà các công ty dịch vụ thuần túy cũng không có hàng tồn kho. Nếu giá vốn hàng bán không được liệt kê trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, thì không có khoản khấu trừ nào có thể được áp dụng cho các chi phí đó.
– Ví dụ về các công ty dịch vụ thuần túy bao gồm công ty kế toán, văn phòng luật, thẩm định viên bất động sản, tư vấn kinh doanh, vũ công chuyên nghiệp, v.v. Thay vào đó, họ có cái được gọi là “chi phí dịch vụ”, không được tính vào khoản khấu trừ giá vốn hàng bán.
– Giá vốn doanh thu so với giá vốn hàng bán: Chi phí doanh thu tồn tại cho các dịch vụ hợp đồng đang thực hiện có thể bao gồm nguyên vật liệu thô, nhân công trực tiếp, chi phí vận chuyển và hoa hồng trả cho nhân viên bán hàng. Tuy nhiên, những mặt hàng này không thể được xác nhận là COGS nếu không có sản phẩm được sản xuất thực tế để bán. Trang web IRS thậm chí còn liệt kê một số ví dụ về “doanh nghiệp dịch vụ cá nhân” không tính giá vốn hàng bán trên báo cáo thu nhập của họ. Những người này bao gồm bác sĩ, luật sư, thợ mộc và họa sĩ.
Nhiều công ty dựa trên dịch vụ có một số sản phẩm để bán. Ví dụ: các hãng hàng không và khách sạn chủ yếu là nhà cung cấp các dịch vụ như vận chuyển và lưu trú, nhưng họ cũng bán quà tặng, thực phẩm, đồ uống và các mặt hàng khác. Những mặt hàng này chắc chắn được coi là hàng hóa, và những công ty này chắc chắn có tồn kho những mặt hàng đó. Cả hai ngành này đều có thể liệt kê giá vốn hàng bán trên báo cáo thu nhập của họ và khai báo cho các mục đích thuế.
– Chi phí hoạt động so với giá vốn hàng bán: Cả chi phí hoạt động và giá vốn hàng bán (COGS) đều là những khoản chi phí mà các công ty phải chịu khi điều hành hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, các khoản chi phí được tách biệt trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Không giống như giá vốn hàng bán, chi phí hoạt động (OPEX) là các khoản chi không liên quan trực tiếp đến việc sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ.
– Thông thường, chi phí bán hàng & quản lý (chi phí bán hàng, chi phí chung và chi phí quản lý) được bao gồm trong chi phí hoạt động như một mục hàng riêng biệt. Chi phí bán hàng & quản lý là các khoản chi không liên quan trực tiếp đến sản phẩm, chẳng hạn như chi phí chung. Ví dụ về chi phí hoạt động bao gồm: Thuê, tiện ích, văn phòng phẩm, chi phí pháp lý, bán hàng và marketing, lương bổng, chi phí bảo hiểm
– Hạn chế của giá vốn hàng bán: Giá vốn hàng bán có thể dễ dàng bị thao túng bởi kế toán hoặc người quản lý đang tìm cách ghi sổ. Các nhà đầu tư khi xem qua báo cáo tài chính của một công ty có thể phát hiện ra kế toán hàng tồn kho không cẩn thận bằng cách kiểm tra sự tích tụ hàng tồn kho, chẳng hạn như hàng tồn kho tăng nhanh hơn doanh thu hoặc tổng tài sản được báo cáo.
– Giá vốn hàng bán (COGS) được tính bằng cách cộng các chi phí trực tiếp khác nhau cần thiết để tạo ra doanh thu của công ty. Quan trọng là, giá vốn hàng bán chỉ dựa trên chi phí được sử dụng trực tiếp để tạo ra doanh thu đó, chẳng hạn như hàng tồn kho của công ty hoặc chi phí lao động có thể được quy cho doanh số bán hàng cụ thể. Ngược lại, các chi phí cố định như lương quản lý, tiền thuê nhà và điện nước không được tính vào giá vốn hàng bán. Hàng tồn kho là một thành phần đặc biệt quan trọng của giá vốn hàng bán và các quy tắc kế toán cho phép một số cách tiếp cận khác nhau để đưa nó vào tính toán.
– Giá vốn hàng bán không bao gồm tiền lương và các chi phí quản lý doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, một số loại chi phí lao động nhất định có thể được tính vào giá vốn hàng bán, miễn là chúng có thể liên quan trực tiếp đến doanh thu bán hàng cụ thể. Ví dụ: một công ty sử dụng các nhà thầu để tạo ra doanh thu có thể trả hoa hồng cho các nhà thầu đó dựa trên giá tính cho khách hàng. Trong trường hợp đó, hoa hồng mà các nhà thầu kiếm được có thể được bao gồm trong giá vốn hàng bán của công ty, vì chi phí lao động đó liên quan trực tiếp đến doanh thu được tạo ra.
– Về lý thuyết, giá vốn hàng bán phải bao gồm giá vốn của tất cả hàng tồn kho đã được bán trong kỳ kế toán. Tuy nhiên, trên thực tế, các công ty thường không biết chính xác đơn vị hàng tồn kho nào đã được bán. Thay vào đó, họ dựa vào các phương pháp kế toán như quy tắc Nhập trước, Xuất trước (FIFO) và Nhập sau, Xuất trước (LIFO) để ước tính giá trị của hàng tồn kho đã thực sự được bán trong kỳ. Nếu giá trị hàng tồn kho bao gồm trong giá vốn hàng bán là tương đối cao, thì điều này sẽ gây áp lực giảm lên lợi nhuận gộp của công ty. Vì lý do này, các công ty đôi khi chọn các phương pháp kế toán sẽ tạo ra con số giá vốn hàng bán thấp hơn, nhằm tăng lợi nhuận được báo cáo của họ.
Với phương pháp tính giá vốn hàng bán này, cần đảm bảo thông tin số hàng tồn kho của bạn phải chính xác tuyệt đối. Bởi khi số lượng hàng tồn sai, sẽ dẫn đến cả tử số và mẫu số đều sai. Giá vốn bán hàng sai thì sẽ không thể tính lãi gộp và giá trị tồn kho đúng được. Bài viết trên đây chúng tôi đã phân tích giá vốn hàng bán là gì. Hy vọng thông tin trên đây hữu ích với bạn.