Điều 417 Bộ luật hình sự quy định tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh

Điều 417 Bộ luật hình sự quy định tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh

Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh không chỉ xâm phạm chính sách đối với thương binh, liệt sĩ -một trong những chính sách xã hội vô cùng quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, xâm phạm kỷ luật chiến trường, mà còn trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của thương binh, tử sỹ. Vậy Điều 417 Bộ luật hình sự quy định tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh quy định như thế nào? 

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 417 Bộ luật hình sự 2015

Điều 417 Bộ luật hình sự quy định tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh như sau:

“Điều 417. Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh

1. Người nào có trách nhiệm mà cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Là chỉ huy hoặc sĩ quan;

b) Đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sỹ trở lên.”

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 417 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 417 Bộ luật hình sự

Tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh không chỉ xâm phạm chính sách đối với thương binh, liệt sĩ -một trong những chính sách xã hội vô cùng quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, xâm phạm kỷ luật chiến trường, mà còn trực tiếp xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của thương binh, tử sỹ.

Theo từ điển Tiếng Việt, tử sĩ là quân nhân đã chết khi đang tại ngũ.

Theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số 02/2020/UBTVQH14 ngày 09 tháng 12 năm 2020, thương bình được định nghĩa như sau:

“Điều 23. Điều kiện, tiêu chuẩn thương binh,…

Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ trong Quân đội nhân dân và sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ trong Công an nhân dân bị thương có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 21% trở lên thì được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xem xét công nhận là thương binh, cấp “Giấy chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia;

b) Làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong địa bàn địch chiếm đóng, địa bàn có chiến sự, địa bàn tiếp giáp với vùng địch chiếm đóng;

c) Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với địch;

d) Bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh mà để lại thương tích thực thể;

đ) Làm nghĩa vụ quốc tế;

e) Dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh;

g) Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, diễn tập hoặc làm nhiệm vụ phục vụ quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm;

h) Do tai nạn khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn biên giới, trên biển, hải đảo có điều kiện đặc biệt khó khăn theo danh mục do Chính phủ quy định;

i) Trực tiếp làm nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm;

k) Đặc biệt dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của Nhân dân hoặc ngăn chặn, bắt giữ người có hành vi phạm tội, là tấm gương có ý nghĩa tôn vinh, giáo dục, lan tỏa rộng rãi trong xã hội.

Thương binh loại B là quân nhân, công an nhân dân bị thương có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 21% trở lên trong khi tập luyện, công tác đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày 31 tháng 12 năm 1993.”

Như vậy, khách thể của tội phạm là kỷ luật chiến trường, tính mạng, sức khoẻ, thân thể  của thương binh, tử sỹ.

Mặt khách quan của tội phạm – Điều 417 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết.

Cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa là cố ý không đưa thương binh, tử sĩ ra khỏi trận địa. Đây là hành vi của người có trách nhiệm, mặc dù có điều kiện nhưng đã không đưa hoặc không tổ chức đưa thương binh, tử sĩ ra khỏi trận địa về nơi an toàn để cứu chữa, chôn cất. Cũng coi là hành vi phạm tội nếu trường hợp quân nhân biết có thương binh, tử sĩ ở trận địa, có điều kiện nhưng không làm hoặc không báo cáo cho người có trách nhiệm biết để tổ chức đưa thương binh, tử sĩ ra khỏi trận địa hoặc không chôn cất tử sĩ theo quy định. Chỉ coi là tội phạm khi hành vi bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa trong trường hợp có điều kiện đưa nhưng đã không đưa và cũng không tổ chức đưa thương binh, tử sĩ ra khỏi trận địa.

Không chăm sóc, cứu chữa thương binh là hành vi của người có trách nhiệm chăm sóc, cứu chữa thương binh nhưng bỏ mặc không băng bó, điều trị, cho ăn uống,…

Hậu quả của tội phạm có thể là không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết. Hậu quả xảy ra là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội này. Để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, cần xác định quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra. Tội phạm hoàn thành khi có một trong những hậu quả kể trên xảy ra.

Chủ thể của tội phạm – Điều 417 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Chỉ những người được quy định tại Điều 392 Bộ luật Hình sự mới có thể thực hiện tội phạm.

Họ chỉ có thể là:

“Điều 392. Những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân

Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng.

Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện.

Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội.”

Ngoài ra, người phạm tội phải đáp ứng đủ điều kiện về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm – Điều 417 Bộ luật hình sự

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả do hành vi của mình gây ra, mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

Điều 417 Bộ luật hình sự quy định tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh
Điều 417 Bộ luật hình sự quy định tội cố ý bỏ thương binh, tử sỹ hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh

Hình phạt tại Điều 417 Bộ luật hình sự 2015

Điều 417 Bộ luật Hình sự quy định 02 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 417 Bộ Luật hình sự: Người nào có trách nhiệm mà cố ý bỏ thương binh, tử sĩ tại trận địa hoặc không chăm sóc, cứu chữa thương binh dẫn đến không tìm thấy thương binh, tử sỹ hoặc thương binh bị chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 417 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

  • Là chỉ huy hoặc sĩ quan;
  • Đối với 02 thương binh hoặc 02 tử sỹ trở lên.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 417 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 417 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với  Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139