Điều 372 Bộ luật hình sự quy định tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật

Điều 372 Bộ luật hình sự quy định tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật

Ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật, được hiểu là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để buộc nhân viên tư pháp (thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành án) làm không đúng các quy định của pháp luật về tố tụng và pháp luật thi hành án. Vậy hiện nay Điều 372 Bộ luật hình sự quy định tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật được quy định như thế nào? 

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 372 Bộ luật hình sự 2015

Điều 372 Bộ luật hình sự quy định tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật như sau:

“Điều 372. Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Phạm tội 02 lần trở lên;

b) Dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật;

c) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội;

b) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 372 Bộ luật hình sự 2015

Khách thể của tội phạm – Điều 372 Bộ luật hình sự

Ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn bắt buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật xâm phạm đến hoạt đồng bình thường của các cơ quan tư pháp, đồng thời xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. bởi lẽ, khi người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp đã bị ép buộc làm trái pháp luật, thì không chỉ hoạt động bình thường của cơ quan tư pháp bị xâm phạm mà lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân cũng bị xâm phạm.

Đối tượng tác động của tội này chính là người có thểm quyền trong hoạt động tư pháp. Bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, Phó chánh án Toà án các cấp; Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký Toà án; Chấp hành viên. Thẩm tra viên, chuyên viên pháp lý công tác ở Toà án các cấp cũng được coi là người có thểm quyền trong hoạt động tư pháp. Tuy họ không phải người trực tiếp tham gia vào quá trình tố tụng nhưng vai trò của họ cũng rất quan trọng, họ là những người được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án đề xuất hướng giải quyết vụ án, nếu họ bị ép buộc làm trái pháp luật thì cũng sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

Như vậy, khách thể của tội phạm là lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và sự thật vụ án, vụ việc cần được xét xử.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 372 Bộ luật hình sự

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên.

Hậu quả của tội phạm là gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên.

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này do tội phạm có cấu thành vật chất. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm hậu quả kể trên xảy ra.

Chủ thể của tội phạm Điều 372 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Người có chức vụ nói trên đây là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 372 Bộ luật hình sự

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.

Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này nhưng việc xác định động cơ của người phạm tội là rất cần thiết. Căn cứ vào động cơ phạm tội mà có thể xác định hành vi của người phạm tội có phải là hành vi ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật hay không. Ngoài ra, việc xác định động cơ còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xử lý người có chức vụ, quyền hạn và khi quyết định hình phạt nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Điều 372 Bộ luật hình sự quy định tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật
Điều 372 Bộ luật hình sự quy định tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật

Hình phạt tại Điều 372 Bộ luật hình sự

Điều 372 Bộ luật hình sự quy định 04 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 372 Bộ Luật hình sự: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 372 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật;
  • Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác;
  • Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Mức hình phạt tại khoản 3 Điều 372 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

  • Dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội;
  • Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.

Mức hình phạt tại khoản 4 Điều 372 Bộ Luật hình sự:Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 372 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 372 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139