Ý thức là gì? Khái niệm ý thức theo Triết học Mác – Lê nin? Nguồn gốc của ý thức? Bản chất của ý thức? Lấy ví dụ về ý thức?
Khi xã hội ngày càng phát triển thì một điều không thể phủ nhận đó chính là những ý thức của con người tác động đến sự vật cũng thay đổi theo.
Các trạng thái của ý thức cũng được liên kết với các trạng thái của kinh nghiệm để cấu trúc được biểu thị trong nhận thức được phản ánh trong cấu trúc của kinh nghiệm. Vậy ý thức được định nghĩa ở đây là gì? Nguồn gốc và bản chất của ý thức? Lấy ví dụ?
Ý thức là gì?
Theo tâm lý học thì ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở con người. Ý thức được hiểu theo định nghĩa của triết học Mác-Lenin là một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Ý thức là trạng thái có ý thức về một cái gì đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng trực tiếp biết và nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được các sự kiện. Một định nghĩa khác mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông tin khi thông tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo hướng của một loạt các hành động.
Ý thức được xác định là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào một trạng thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện bên ngoài bằng cách nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một cái gì đó, một quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ bản làm quen với các mục mà chúng ta nhận thức được).
Ý thức hoặc “cảm nhận” có thể được mô tả là một cái gì đó xảy ra khi não được kích hoạt theo những cách nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì được nhìn thấy sau khi võng mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình thành khái niệm này được đặt ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển một định nghĩa phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.
Ý thức cũng được kết hợp với ý thức theo nghĩa là khái niệm này biểu thị một kinh nghiệm cơ bản như cảm giác hoặc trực giác đi kèm với kinh nghiệm về hiện tượng. Cụ thể, điều này được gọi là ý thức về kinh nghiệm. Đối với ý thức, nó đã được mặc định là phải trải qua các cấp độ thay đổi liên tục.
Những ý kiến phổ biến về ý thức cho rằng hiện tượng mô tả một điều kiện nhận thức về bản thân (tự nhận thức). Lý thuyết hệ thống hiện đại, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về cách thế giới hoạt động thông qua sự hiểu biết rằng tất cả các hệ thống đều tuân theo các quy tắc của hệ thống, tiếp cận sự tự nhận thức trong tầm hiểu biết của nó về cách thức hoạt động của các hệ thống sống phức tạp lớn.
Theo Gregory Bateson, ý thức là động lực của sự tự tổ chức và nhận thức là điều cốt yếu trong sự tồn tại của quá trình này. Lý thuyết hệ thống hiện đại cho rằng con người, với tư cách là hệ thống sống, không chỉ nhận thức về môi trường mà còn nhận thức về bản thân, đặc biệt là với khả năng logic và tò mò.
Những nỗ lực để mô tả ý thức bằng các thuật ngữ thần kinh đã tập trung vào việc mô tả các mạng lưới trong não phát triển nhận thức về trình độ được phát triển bởi các mạng lưới khác. Khi nhận thức cung cấp các tài liệu mà từ đó người ta phát triển các ý tưởng chủ quan về kinh nghiệm của họ, người ta nói rằng người ta nhận thức được trạng thái nhận thức của chính mình. Tổ chức nhận thức về trải nghiệm bên trong của chính mình được giao một vai trò trung tâm trong việc tự điều chỉnh.
Nguồn gốc của ý thức:
Theo quan điểm từ chủ nghĩa duy vật biện chứng thì ý thức được xác định là có nguồn gốc từ tự nhiên và ý thức còn có nguồn gốc từ xã hội và nó được thể hiện với nội dung cụ thể:
– Thứ nhất, nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Bộ óc và sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách quan và con người được nhận định là các yếu tố tự nhiên là sự bắt nguồn và cũng là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Sự hình thành ý thức từ con người đối với thế giới khách quan là do có sự tác động của thế giới khách quan tới bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý này. Như vậy, có thể nhận định một điều rằng sự phản ánh về thế giới khách quan từ con người được xem là ý thức.
Mà trong đó, phản ảnh được hiểu là sự sự tái tạo về đặc điểm dạng vật chất này bởi dạng vật chất khác khi tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh sinh học, phản ánh tâm lý, phản ánh vật lý hóa học, phản ánh năng động sáng tạo được hiểu là hình thức của những sự phản ánh và phản ánh là một thuộc tính từ tất cả các dạng vật chất.
Một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho vật chất vô sinh là phản ánh về hóa học vật lý. Những biến đổi về lý, hóa, cơ khi có sự tác động lẫn nhau bởi các dạng vật chất vô sinh được nhận định là phản ánh về hóa học vật lý. Hình thức được phản ánh chỉ mang tính thụ động của vật nhận tác động chứ phản ánh chưa định hướng lựa chọn.
Phản ánh tâm lý được nhận định là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được phát triển đến trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện dưới cơ chế phản xạ có điều kiện lên những tác động môi trường sống.
Hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi con người đó chính là phản ánh ý thức.
Hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng giới tự nhiên hữu sinh đó là phản ánh sinh học. Quá trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được thể hiện qua tính kích thích, phản xạ và tính cảm ứng.
Thứ hai, nguồn gốc xã hội của ý thức bao gồm các nhân tố cơ bản nhất như lao động và ngôn ngữ, nó trực tiếp tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức.
Một quá trình con người sử dụng về công cụ tác động với giới tự nhiên để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người được nhận định là lao động. Còn cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất nhân tạo có vai trò trong thể hiện, lưu trữ nội dung ý thức thì chính là ngôn ngữ.
Bản chất của ý thức:
Ý thức, nói một cách đơn giản nhất, là sự gửi gắm hay nhận thức về sự tồn tại bên trong và bên ngoài. Bất chấp hàng thiên niên kỷ phân tích, định nghĩa, giải thích và tranh luận của các triết gia và nhà khoa học, ý thức vẫn còn là điều khó hiểu và gây tranh cãi, là “khía cạnh quen thuộc nhất và [cũng] bí ẩn nhất trong cuộc sống của chúng ta”. Có lẽ khái niệm duy nhất được đồng ý rộng rãi về chủ đề này là trực giác rằng ý thức tồn tại.
Các ý kiến khác nhau về những gì chính xác cần được nghiên cứu và giải thích là ý thức. Đôi khi, nó đồng nghĩa với tâm trí, và những lúc khác, một khía cạnh của tâm trí. Trong quá khứ, đó là “cuộc sống bên trong” của một người, thế giới của nội tâm, của suy nghĩ, trí tưởng tượng và hành động riêng tư. Ngày nay, nó thường bao gồm bất kỳ loại nhận thức, kinh nghiệm, cảm giác hoặc nhận thức nào.
Nó có thể là nhận thức, nhận thức về nhận thức, hoặc nhận thức về bản thân liên tục thay đổi hoặc không. Có thể có các cấp độ hoặc trật tự ý thức khác nhau, hoặc các loại ý thức khác nhau, hoặc chỉ một loại với các tính năng khác nhau. Các câu hỏi khác bao gồm liệu chỉ con người có ý thức, tất cả các loài động vật, hay thậm chí toàn bộ vũ trụ. Phạm vi nghiên cứu, quan niệm và suy đoán khác nhau làm dấy lên nghi ngờ về việc liệu có đúng câu hỏi được đặt ra hay không
Đối với bản chất của ý thức đã được nhận định bằng nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau, và chưa có nhận định chung về bản chất của ý thức.
Theo triết học duy tâm quan niệm: ” Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.
Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh: “về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Do đó, để hiểu về bản chất của ý thức cần dựa trên các yếu tố sau:
– Thứ nhất, vât chất và ý thức được chúng ta thừa nhận nhưng giữa chúng có sự khác nhau mang tính đối lập. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức là sự phản ánh, là cái phản ánh. Ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trong khi đó, vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với ý thức.
+Thứ hai, những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đó chính là ý thứ.
+ Thứ ba ý thức là một hiện tượng xã hội.
Lấy ví dụ về ý thức:
Ý thức đã hình thành trong quá trình con người lao động, khi đó, con người đã có ý thức tác động đến sự vật xung quan họ để có thể tạo ra những thứ họ muốn theo đúng ý chí của họ. Ví dụ như:
Khi con người tham gia vào quá trình lao động sản xuất thì thay như giai đoạn trước con người sử dụng cày cuốc để cày ruộng, đào mương, xây cầu, làm đường,… thì ngày nay, con người đã ý thức được việc tăng năng suất lao động bằng việt đưa máy móc vào hoạt động để tạo ra năng suất công việc như mình mong muốn.
Ví dụ về phạm vi mô tả, định nghĩa hoặc giải thích là: sự tỉnh thức đơn giản, ý thức về bản thân hoặc tâm hồn được khám phá bằng cách “nhìn vào bên trong”; là một “dòng” nội dung ẩn dụ, hoặc là một trạng thái tinh thần, sự kiện tinh thần hoặc quá trình tinh thần của bộ não; có phanera hoặc tính chất và tính chủ quan; là ‘cái gì đó giống như’ để ‘có’ hoặc ‘là’ nó; là “nhà hát bên trong” hoặc hệ thống kiểm soát điều hành của tâm trí
Trên đây là bài viết về nội dung ví dụ về ý thức. Hy vọng những thông tin mà Luật Trần và Liên Danh đưa ra hữu ích với bạn.