Hiện nay, dư luận đang khá thắc mắc khi có một số trường hợp người phạm tội đã bị khởi tố nhưng cơ quan điều tra không tạm giam, tạm giữ các đối tượng này. Vậy bắt tạm giam trong trường hợp nào? Hãy cùng Luật Trần và Liên Danh tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé!
Tạm giam, tạm giữ là gì?
Theo Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền chỉ áp dụng các biện pháp bắt giữ người khi:
– Muốn kịp thời ngăn chặn tội phạm
– Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử
– Khi có căn cứ cho rằng người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội
– Đảm bảo cho thi hành án
Khi đó, tạm giam, tạm giữ là hai trong số các biện pháp ngăn chặn này; chúng giúp quá trình điều tra của cơ quan có thẩm quyền được diễn ra thuận lợi, nhanh chóng hơn.
Theo đó, người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở tạm giữ trong thời gian bị tạm giữ, gia hạn tạm giữ.
Người bị tạm giam là bị can, bị cáo, người bị phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án, người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ, Luật sư hình sự giỏi.
Thời hạn tạm giam là gì ?
Thời hạn tạm giam là thời hạn do pháp luật quy định được phép tạm giam bị can, bị cáo để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trở lên và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu trở lên có quyền gia hạn tạm giam đối với tội ít nghiêm trọng (một lần không quá 1 tháng), tội nghiêm trọng (hai lần trong đó lần đầu không quá 2 tháng, lần hai không quá 1 tháng), tội rất nghiêm trọng (một lần không quá 3 tháng), tội đặc biệt nghiêm trọng (một lần không quá 4 tháng).
Ngoài ra, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền gia hạn tạm giam lần thứ hai (không quá 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng). Trong trường hợp thời hạn tạm giam lần hai đối với tội đặc biệt nghiêm trọng đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần ba không quá 4 tháng.
Theo quy định trên, thời hạn tạm giam để điều tra tối đa không quá 3 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 6 tháng đối với tội nghiêm trọng; 9 tháng đối với tội rất nghiêm trọng; 16 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, trong trường hợp cần thiết Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn tạm giam thêm ngoài 146 tháng. Thời hạn tạm giam thêm không được Bộ luật tố tụng hình sự quy định mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm và yêu cầu của việc điều tra mà Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định.
Thời hạn tạm giam để Viện kiểm sát quyết định việc truy tố không quá 20-ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để hoàn thành bản cáo trạng, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn thêm, nhưng không quá 10 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 15 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hạn tạm giam để toà án chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Phân tích khái niệm tạm giam theo quy định luật tố tụng hình sự hiện nay
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng theo quy định của pháp luật (Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ).
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách li với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền của công dân.
Mục đích tạm giam
Tạm giam đuợc áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Vì vậy, ngoài mục đích chung là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy càn thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lí, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi.
Đối tượng áp dụng
Tạm giam chỉ áp dụng với bị can, bị cáo. Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định những trường hợp có thể áp dụng biện pháp tạm giam như sau:
Trường hợp thứ nhất: Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của BLHS, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:
+ Người bị áp dụng phải là bị can hoặc bị cáo; tư vấn luật hình sự chi tiết
+ Bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
Trường hợp thứ hai: Bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ xác định người đó ở vào một trong các trường hợp sau:
+ Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm Đây là trường hợp bị can, bị cáo đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc như bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú… nhưng đã vi phạm nghĩa vụ đã cam kết như tiếp tục phạm tội, không có mặt khi được triệu tập…;
+ Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lí lịch của bị can, bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
+ Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu huỷ, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe doạ, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Ngoài ra, tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo vê tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lí lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
+ Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; Luật sư bào chữa hình sự chi tiết.
+ Bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu huỷ, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe doạ, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
+ Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Khoản 5 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nhũng người có thẳm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam (những người có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ). Lệnh tạm giam của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Thời hạn mà viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan điều tra là ba ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua địa chỉ hotline của Công ty luật để được giải đáp và tư vấn hiệu quả nhất.