Điều 333 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ

Điều 333 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ

Bác Hồ đã từng nói Quân đội là “trường học lớn” để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Để mỗi thanh niên phấn đấu, rèn luyện, không ngừng hoàn thiện nhân cách, phát triển toàn diện thì có thể nói môi trường quân ngũ là điều kiện, là môi trường tốt bởi đặc tính thống nhất, kỷ luật nghiêm minh, tinh thần tập thể và tình đồng chí, đồng đội,… Chính vì vậy mà nhập ngũ trở thành nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người. Việc né tránh, không tuân theo lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ có thể bị xử lý hình sự. Bài viết tìm hiểu về Điều 333 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ.

Quy định chi tiết của pháp luật về Điều 333 Bộ luật hình sự năm 2015

Điều 333 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ như sau:

“Điều 333. Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ

1. Người nào là quân nhân dự bị mà không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong trường hợp có lệnh tổng động viên, lệnh động viên cục bộ, có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình;

b) Lôi kéo người khác phạm tội.”

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 333 Bộ luật hình sự 2015

Không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ là hành vi của người là quân nhân dự bị mà không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong trường hợp có lệnh tổng động viên, lệnh động viên cục bộ, có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Khách thể của tội phạm – Điều 333 Bộ luật hình sự

Cũng giống với tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, khách thể của tội phạm này là chính sách (chế độ) nghĩa vụ quân sự của Nhà nước; xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan hành chính Nhà nước, trong đó có các cơ quan quân sự địa phương về việc gọi quân nhân dự bị nhập ngũ.

Các quy định về việc gọi quân nhân dự bị nhập ngũ được quy định rất cụ thể trong Luật nghĩa vụ quân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật nghĩa vụ quân sự. Vì vậy, khi xác định hành vi không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ nhất thiết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật về việc gọi quân nhân dự bị nhập ngũ.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 333 Bộ luật hình sự

Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong trường hợp có lệnh tổng động viên, lệnh động viên cục bộ, có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, về bản chất không có gì khác nhau. Quân nhân dự bị không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ thực chất là hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự.

Không chấp hành có thể là không hành động, nhưng cũng có thể là hành động. Người phạm tội không chấp hành có thể là đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ nhưng không đến nơi nhập ngũ (nơi giao quân), nhưng cũng có thể là họ bỏ địa phương đi nơi khác trước ngày nhập ngũ hoặc biết trước có chủ trương gọi quân nhân dự bị nhập ngũ họ đã bỏ đi địa phương khác để tránh việc bị gọi nhập ngũ; có trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ bằng cách tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình để không phải nhập ngũ.

Hậu quả của hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ đối với quân nhân dự bị chủ yếu là hậu quả phi vật chất, nó làm ảnh hưởng đến kế hoạch tuyển quân, đến chính sách thực hiện nghĩa vụ quân sự của Nhà nước. Nếu là trong thời chiến thì hậu quả còn nguy hại hơn nhiều.

Tuy nhiên, hậu quả không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ được coi là hoàn thành kể từ thời điểm hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong 04 trường hợp kể trên xảy ra.

Chủ thể của tội phạm Điều 333 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, điều này được thể hiện ngay tên của tội danh, chỉ những người là quân nhân dự bị mới có thể thực hiện hành vi và là chủ thể phạm tội này.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXII Bộ luật hình sự. Theo Luật nghĩa vụ quân sự 2015, Công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi. Như vậy chủ thể của tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ là người từ đủ 18 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 333 Bộ luật hình sự

Cũng như đối với người phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, người phạm tội “không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ” thực hiện hành vi do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, gây ảnh hưởng đến kế hoạch động viên quân dự bị tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội nhưng vẫn có tình không thực hiện. Người phạm tội cũng có thể thấy trước hậu quả của hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, nhưng chủ yếu là bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra.

Động cơ phạm tội của người phạm tội cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của xã hội và của gia đình người phạm tội như: vì sợ chết, sợ gian khổ, sợ gia đình sẽ gặp khó khăn.v.v… Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, việc xác định động cơ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.

Điều 333 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ
Điều 333 Bộ luật hình sự quy định tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ

Hình phạt tại Điều 333 Bộ luật hình sự 2015

Điều 333 BLHS năm 2015 quy định 02 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 333 Bộ Luật hình sự: Người nào là quân nhân dự bị mà không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong trường hợp có lệnh tổng động viên, lệnh động viên cục bộ, có chiến tranh hoặc có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 333 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

  • Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của mình;
  • Lôi kéo người khác phạm tội.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo có thể được hưởng khi phạm tội tại Điều 333 BLHS năm 2015

Điều 51 Bộ luật hình sự có quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo đó, khi bị cáo có một trong các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 thì Hội đồng xét xử có thể xem xét cho giảm nhẹ trách nhiệm. Cụ thể:

Các tình tiết các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự về việc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thì:

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

Vì vậy, bị cáo có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong trường hợp có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 hoặc trong trường hợp có từ hai tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo còn có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 333 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139