Điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Quy định pháp luật đặt ra để điều chỉnh nhận thức, hành vi của con người. Do đó các hành vi xâm phạm mồ mả, hài cốt, tro hài cốt của người chết là hành vi trái nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực pháp luật. Các nội dung, đặc điểm của hành vi được pháp luật nghiêm cấm. Đồng thời cũng xác định các tội danh liên quan nếu hành vi được con người thực hiện có chủ đích. Trong đó, chúng ta cần hiểu đúng về quy định liên quan đến mồ mả, hài cốt, tro hài cốt theo phạm vi, tính chất như thế nào? điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt?  Từ đó có nhận thức đúng, tuân thủ pháp luật cũng như các chuẩn mực đạo đức.

Xác định các hành vi xâm phạm mồ mả Điều 319 Bộ luật hình sự 

Đối với mồ mả của người chết:

Hành vi xâm phạm mồ mả là hành vi xâm phạm đến vị trí mai táng xác, hài cốt, tro hài cốt của người chết theo phong tục, nghi lễ, tôn giáo của cộng đồng dân cư. Mồ mả và vùng không gian xung quanh cần được bảo vệ, không được xâm phạm theo tính chất phá hoại. Hành vi xâm phạm mồ mả là hành vi xâm phạm đến nơi an nghỉ cuối cùng của cá nhân người chết.

Đối với mồ mả, hài cốt hay tro cốt của người chết thuộc về các giá trị tâm linh, trong đời sống tinh thần và văn hóa. Cho nên các hành vi xâm phạm này phải được hiểu một cách thống nhất.

Khi xác định hành vi nào là hành vi xâm phạm mồ mả, cần xác định:

Thú nhất, người có hành vi cho dù là với bất kì mục đích gì mà xâm phạm trực tiếp đến xác, hài cốt, tro hài cốt của người chết, xâm phạm đến sự nguyên dạng của xác, hài cốt, tro hài cốt hoặc làm hao hụt hài cốt, tro hài cốt đã mai táng thì hành vi đó là hành vi xâm phạm mồ mả;

Thứ hai, người có hành vi di chuyển vị trí chôn cất xác, hài cốt, tro hài cốt của cá nhân trái với ý chí của những người thân thích của những người chết (trừ trường hợp phải di rời mồ mả theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền);

Thứ ba, người có hành vi thay đổi tấm bia ghi tên người chết có xác, hài cốt, tro hài cốt dưới mộ gây ra sự nhầm lẫn với người thân thích của người chết đó;

Thứ tư, người có hành vi san phẳng mồ mả của người chết, làm mất dấu tích của ngôi mộ, khiến không thể phát hiện được vị trí của ngôi mộ đó.

Bao gồm cả không gian xung quanh ngôi mộ:

Khi xác định hành vi xâm phạm mồ mả còn cần hiểu theo nghĩa rộng là hành vi xâm phạm đến không gian (phạm vi), hình dáng, tường rào bao bọc xung quanh ngôi mộ. Bởi vị trí ngôi mộ được xây dựng có mối liên hệ hữu cơ với mục đích giữ gìn, bảo vệ xác, hài cốt, tro hài cốt của người có ngôi mộ đó, do vậy mọi hành vi làm biến dạng kiến trúc liên quan đến mục đích bảo vệ người đã chết được nguyên vẹn, đều bị coi là hành vi xâm phạm mồ mả.

Ở một số đồng bào dân tộc nước ta như người Gia Rai, M’Nông, Cơ Tu… có phong tục bỏ mả. Hành vi xâm phạm mồ mả không phụ thuộc vào nghi lễ và phong tục mai táng cá nhân qua đời do vậy hành vi xâm phạm đến những ngôi mộ đã bị bỏ theo phong tục cũng được xác định là hàn

Đối với cả các ngôi mộ không có tử thi:

Không chỉ vậy, những ngôi mộ không có tử thi do hài cốt người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ… không tìm thấy tử xác.

Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo như lễ an táng thông thường mà dân gian thường gọi là hình thức chiêu hồn nạp táng nếu bị xâm phạm thì vẫn coi như hành vi xâm phạm mồ mả như trường hợp bình thường.

Vì những ngôi mộ đó được dựng lên, con cháu ho hàng của người đã khuất cũng đã gửi vào đó một ý niệm tâm linh sâu sắc đồng thời họ cũng đã phải bỏ ra những chi phí cần thiết để xây dựng lên ngôi mộ đó. Không thể coi việc xâm phạm đến mộ có tử thi thì phải bồi thường còn xâm phạm đến mộ không có tử thi thì không.

Hành vi xâm phạm tro cốt, hài cốt:

Vấn đề đặt ra là bình đựng tro hài cốt của cá nhân sau khi hỏa táng có phải nếu bị xâm phạm có được coi là hành vi xâm phạm mồ mả hay không?

Cho dù bình đựng hài cốt của cá nhân không thuộc nội hàm của khái niệm mồ mả nhưng hỏa táng và đựng tro hài cốt của người thân trong bình, cũng giống như mai táng, là một cách thức thể hiện niềm tin nội tâm về của những người còn sống đối với người đã khuất.

Một hành vi, dù là xâm phạm mồ mả theo đúng nghĩa của nó hay là một chiếc bình đựng tro hài cốt đều đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm đến quyền nhân thân vĩnh viễn gắn liền với nơi an nghỉ cuối cùng của người chết cũng như quyên nhân thân của gia đình, dòng tộc của họ.

Không có lý do gì để kẻ xâm phạm đến mồ mả thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn người xâm phạm đến bình đựng tro hài cốt thì ung dung, tự tại với hành vi của mình. Nếu như đặt hành vi nói trên đây ra ngoài hành vi xâm phạm mồ mả thì sẽ gây ảnh hưởng lớn đến đời sống dân cư cũng như sự nghiêm minh của pháp luật.

Vì vậy, có thể khẳng định rằng, hành vi xâm phạm đến bình đựng tro hài cốt của cá nhân sau khi hỏa táng cũng là một hành vi xâm phạm mồ mả và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả theo điều 629 BLDS.

Quy định chi tiết Điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt như sau:

Điều 319. Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Người nào đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

b) Chiếm đoạt hoặc hủy hoại vật có giá trị lịch sử, văn hóa;

c) Vì động cơ đê hèn;

d) Chiếm đoạt bộ phận thi thể, hài cốt.

điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt
điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Các dấu hiệu pháp lý tại Điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Khách thể của tội phạm – Điều 319 Bộ luật hình sự

Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt là tội xâm phạm đến trật tự, an toàn đối với thi thể, phần mộ và hài cốt của người đã chết và thông qua đó đã xâm phạm đến phong tục, tập quán, truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Mặt khách quan của tội phạm Điều 319 Bộ luật hình sự

Mặt khách quan của tội phạm gồm 03 hành vi: đào, phá mồ mả; chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt.

Đào, phá mồ mả là hành vi huỷ hoại hoặc làm hư hỏng mồ mả, làm cho mồ mà không còn nguyên vẹn như trước. Hành vi đào, phá mồ mả được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau và với những động cơ, mục đích khác nhau như: để lấy những đồ vật quý hiếm mà thân nhân người quá cố cho vào quan tài chôn cùng với người quá cố; để trả thù thân nhân người quá cố; để che giấu hành vi phạm tội… Tuy nhiên, nếu hành vi đào, phá mồ mả, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội  không đáng kể thì không coi là hành vi phạm tội như: đào mộ để bắt chuột, bắt rắn; đập phá một vài hoa tiết trang trí trên mộ…

Hành vi chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ thường đi kèm với hành vi đào, phá mồ mả (đào phá mồ mả để chiếm đoạt những đồ vật để trong quan tài), nhưng cũng có trường hợp  người phạm tội không đào, phá mồ mả nhưng vẫn chiếm đoạt được những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ như: lợi dụng việc đổi mộ (bốc hài cốt) đã chiếm đoạt đồ trang sức chôn theo người chết; lấy các đồ vật có giá trị để trên mộ (bát hương, lọ hoa, di ảnh…).

Ngoài hành vi đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ thì các hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt cũng được coi là hành vi phạm tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt.

Hành vi khác nói ở đây là bất cứ hành vi nào mà xâm phạm đến thi thể, mồ mả, hài cốt như: đánh tráo thi thể, lấy các bộ phận của thi thể, đánh tráo hoặc chiếm đoạt hài cốt, chia sẻ hài cốt. v.v…

Hậu quả của hành vi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khác quan xảy ra.

Chủ thể của tội phạm Điều 319 Bộ luật hình sự

Chủ thể của tội phạm không phải chủ thể đặc biệt, bất kì ai cũng có thể là chủ thể của tội phạm này.

Chủ thể của tội phạm phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 thuộc Chương XXI Bộ luật hình sự. Như vậy, chủ thể của tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt phải là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm Điều 319 Bộ luật hình sự

Chủ thể thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.

Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Mức hình phạt tại Điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Điều 319 Bộ luật Hình sự quy định 02 Khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội như sau:

Mức hình phạt tại khoản 1 Điều 319 Bộ Luật hình sự: Người nào đào, phá mồ mả, chiếm đoạt những đồ vật để ở trong mộ, trên mộ hoặc có hành vi khác xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Mức hình phạt tại khoản 2 Điều 319 Bộ Luật hình sự: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  • Chiếm đoạt hoặc hủy hoại vật có giá trị lịch sử, văn hóa;
  • Vì động cơ đê hèn;
  • Chiếm đoạt bộ phận thi thể, hài cốt.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Điều 319 Bộ luật hình sự quy định tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt

Theo tại Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;      

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Như vậy, nếu có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 nêu trên, người thực hiện hành vi phạm tội có thể được xem xét giảm nhẹ hình phạt và tòa án sẽ xem xét và quyết đinh mức hình phạt cuối cùng.

Như vậy, khi làm việc với cơ quan chức năng, người phạm tội phải thành khẩn khai báo và hợp tác để được hưởng chính sách khoan hồng của nhà nước. Bên cạnh đó, cần có sự tham gia của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Việc góp mặt của luật sư khi tham gia vụ án với tư cách người bào chữa không chỉ xác định chính xác tội danh mà còn khai thác tối đa các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị can, bị cáo.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 319 BLHS năm 2015. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Công ty luật uy tín Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Đánh giá

Đề xuất cho bạn

Thông tin tác giả

Hotline: 034 663 1139
Tư Vấn Online
Gọi: 034 663 1139